Bản án 42/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LỮ, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 42/2023/HS-ST NGÀY 19/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Đào Văn Ph, sinh năm 1992 tại xã TS, huyện TL, tỉnh Hưng Yên; Nơi cư trú: Thôn BH, xã TS, huyện TL, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Con ông Đào Văn P và bà Vũ Thị Thanh Nh (đã chết); có vợ là Mai Thị H đã ly hôn năm 2017 và 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ ngày 10/5/2023, bị tạm giam ngày 16/5/2023 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên “có mặt tại phiên tòa”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đào Văn P, sinh năm 1964; Địa chỉ: Thôn BH, xã TS, huyện TL, tỉnh Hưng Yên “có mặt”

Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Đức Ch, sinh năm 1990; Địa chỉ: Thôn NL, xã AV, huyện TL, tỉnh Hưng Yên“vắng mặt”

- Anh Phan Duy L, sinh năm 1988; Địa chỉ: Thôn NT, xã AV, huyện TL, tỉnh Hưng Yên “vắng mặt” 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 10/5/2023, tại đường thôn NT, xã AV, huyện TL, Công an xã An Viên tuần tra phát hiện bắt quả tang Đào Văn Ph có hành vi tàng trữ tại lòng bàn tay trái 01 gói nilon bên trong chứa chất kết tinh màu trắng nghi là ma túy. Tại chỗ Ph thừa nhận đây là ma túy vừa mua của một người tên Huynh để sử dụng chung với bạn tên D.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tiên Lữ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đào Văn Ph tại thôn BH, xã TS, huyện TL, tỉnh Hưng Yên nhưng không thu giữ được đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại bản kết luận giám định số 285/KL-KTHS ngày 13/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: mẫu chất dạng tinh thể màu trắng trong niêm phong ký hiệu M1 có khối lượng 0,266g, là ma túy, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, bị cáo Đào Văn Ph khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 10/5/2023, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Quick New Wave Dream, BKS 34F7 – X đến nhà Trần Văn D ở thôn NT, xã AV, huyện TL, tỉnh Hưng Yên chơi, sau đó D và Ph bàn nhau mua ma túy về sử dụng. D đưa cho Ph số tiền 500.000đ và số điện thoại 0979.041.X nói là của một người tên Huynh bán ma túy và bảo Ph gọi điện thoại cho Huynh để mua. Bị cáo sử dụng điện thoại di động lắp sim số 0367.225.X gọi điện đến số 0979.041.X cho Huynh để hỏi mua ma túy thì người này hẹn đến cổng trường THCS xã TS, huyện TL. Bị cáo điều khiển xe mô tô BKS 34F7 - X đến cổng trường THCS xã TS và tiếp tục gọi điện thoại cho Huynh thì có một người đàn ông đi xe máy đến đưa cho Ph 01 gói nilon bên trong chứa chất kết tinh màu trắng, Ph biết đó là ma túy nên đưa cho người này 500.000đ. Ph cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái, đi xe về nhà lấy các dụng cụ phục vụ việc sử dụng ma túy gồm: 01 hộp giấy cứng màu đỏ kích thước (9x9)cm, bên trong có 01 coóng thủy tinh dài 8cm, đường kính 0,2cm; 01 ống hút nhựa màu hồng dài 20cm, đường kính 0,2cm; 01 ống hút nhựa màu hồng dài 10cm, đường kính 0,2cm; 01 nắp vỏ chai nhựa màu xanh hình tròn, đường kinh 2,5cm có 02 lỗ thủng hình tròn đường kính 0,2cm, 01 ống kim loại dài 6cm; 01 ống hút nhựa màu hồng dài 7,5cm, đường kính 0,2 cm một đầu được bịt kín rồi đi đến nhà D để sử dụng ma túy. Khi đi đến khu vực thôn NT, xã AV, huyện TL thì bị lực lượng công an xã An Viên phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong ghi số 285/KL-KTHS (MT) bên trong chứa 0,247g ma túy, loại Methamphetamine trong niêm phong ghi ký hiệu M1, 01 vỏ túi nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định; 01 hộp giấy cứng màu đỏ kích thước (9x9)cm bên trong có 01 coóng thủy tinh và các dụng cụ sử dụng ma túy; 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ; 01 điện thoại Nokia màu đen đã cũ có số IMEI: 353482153877858/353482157877856, bên trong lắp thẻ sim 0367.225.X; 01 điện thoại Iphone 7 Plus vỏ màu đen đã cũ có số IMEI: 358600090769697, bên trong lắp thẻ sim 0838.228.X và 01 xe mô tô màu sơn nâu BKS: 34F7-X.

Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình.

Tại Cáo trạng số 34/CT-VKSTL ngày 21/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ đã truy tố bị cáo Đào Văn Ph về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng truy tố, tỏ thái độ ăn năn, hối cải.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ tại phiên tòa: Giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Đào Văn Ph phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, thời hạn được tính từ ngày tạm giữ 10/5/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, b Khoản 1 Điều 46; Điểm a, c Khoản 1, Khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c Khoản 2; Điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 285/KL-KTHS (MT) bên trong chứa 0,247g ma túy, loại Methamphetamine trong niêm phong ghi ký hiệu M1, 01 vỏ túi nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định;

01 hộp giấy cứng màu đỏ kích thước (9x9)cm, bên trong có 01 coóng thủy tinh và các dụng cụ sử dụng ma túy; Trả lại bị cáo 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ và 01 điện thoại Iphone 7 Plus vỏ màu đen đã cũ có số IMEI: 35860090769697, bên trong lắp thẻ sim Vinaphone có dãy số 89840200010X370363; Tịch thu phát mại sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia màu đen đã cũ, bên trong lắp thẻ sim Viettel có ghi dãy số 8984048000060309186; Trả lại ông Đào Văn P là bố đẻ của bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Quick New Wave Dream màu sơn nâu, BKS: 34F7-X.

Bị cáo Đào Văn Ph tự bào chữa: Nhất trí với cáo trạng truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Tiên Lữ; Viện kiểm sát và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2]. Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang được lập hồi 10 giờ 10 phút ngày 10/5/2023; Kết luận giám định số 285/KL-KTHS ngày 13/5/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng, vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu thu thập khác có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 10/5/2023, tại đường thôn NT, xã AV, huyện TL, tỉnh Hưng Yên, Đào Văn Ph có hành vi tàng trữ tại lòng bàn tay trái 0,266g là ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ truy tố bị cáo về tội danh và áp dụng điều luật như Cáo trạng đã viện dẫn là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không oan sai.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; có bố đẻ là ông Đào Văn P tham gia phục vụ trong quân đội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý chất ma túy, xâm phạm đến trật tự xã hội, gây khó khăn cho Nhà nước trong việc đẩy lùi các loại tội phạm về ma túy, là nguyên nhân phát sinh một số loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo biết rất rõ tác hại của ma túy cũng như hậu quả và hệ lụy xấu của việc sử dụng chất ma túy để lại đối với sức khỏe, kinh tế của chính bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố tình tang trư ma tuy đê sư dung . Vì vậy, cần xét xử vụ án nghiêm minh, dành cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội ma b ị cáo đã thực hiện nhằm cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định, nghiện ma túy nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt, hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp và có căn cứ chấp nhận.

[5]. Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong ký hiệu M1 ghi số 285/KL-KTHS (MT) bên trong chứa 0,247g ma túy, loại Methamphetamine; 01 vỏ túi nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ; nên tịch thu cho tiêu hủy. 01 hộp giấy cứng màu đỏ kích thước (9x9)cm, bên trong có 01 coóng thủy tinh dài 8cm, đường kính 0,2cm;

01 ống hút nhựa màu hồng dài 20cm, đường kính 0,2cm; 01 ống hút nhựa màu hồng dài 10cm, đường kính 0,2cm; 01 nắp vỏ chai nhựa màu xanh hình tròn, đường kinh 2,5cm có 02 lỗ thủng hình tròn đường kính 0,2cm, 01 ống kim loại dài 6cm; 01 ống hút nhựa màu hồng dài 7,5cm, đường kính 0,2 cm một đầu được bịt kín là vật liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu cho tiêu hủy. 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ và 01 điện thoại Iphone 7 Plus vỏ màu đen đã cũ loại có số IMEI: 35860090769697, bên trong lắp thẻ sim Vinaphone có dãy số 89840200010X370363 là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo. 01 điện thoại Nokia màu đen đã cũ có số IMEI: 353482155877858/353482157877856, bên trong lắp thẻ sim Viettel có ghi dãy số 8984048000060309186 là tài sản bị cáo sử dụng trong việc liên lạc mua ma túy nên tịch thu sung ngân sách nhà nước. 01 xe mô tô nhãn hiệu DREAM màu sơn nâu, BKS: 34F7-X là tài sản hợp pháp của ông Đào Văn P. Ông P không biết bị cáo mượn xe để đi mua ma túy nên trả lại ông P chiếc xe.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7]. Các vấn đề khác: Đối với người có tên Trần Văn D cơ quan Cảnh sát điều tra đã triệu tập nhiều lần nhưng D không có nhà, gia đình và địa phương không biết đi đâu, làm gì, không liên lạc được. Đối với người đàn ông tên Huynh bán ma túy bị cáo xác định không biết tên tuổi địa chỉ, cơ quan điều tra chưa làm việc được với D để xác định mối quan hệ với Huynh nên tách ra để tiếp tục xác minh, có căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với số điện thoại 0979.041.X, quá trình điều tra xác định chủ thuê bao là chị Lê Kim P, sinh năm 1994, địa chỉ tại xã TS, huyện TL, tỉnh Hưng Yên. Tuy nhiên chị P hiện không có mặt tại địa phương nên Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Tiên Lữ đã tách ra để tiếp tục xác minh làm rõ là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với chiếc điện thoại số 0367.225.X, quá trình điều tra xác định chủ thuê bao là Đào Văn T, sinh năm 2000 là em trai của Đào Văn Ph đã bán số điện thoại trên cho bị cáo từ năm 2019. Anh T không biết bị cáo sử dụng số điện thoại trên vào việc phạm tội nên không có căn cứ xử lý.

[8]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát xử lý vật chứng, án phí đối với bị cáo là phù hợp và có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Đào Văn Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Đào Văn Ph 01 năm tù ((một năm tù), thời gian chấp hành hình phạt được tính từ ngày tạm giữ 10/5/2023.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, b Khoản 1 Điều 46; Điểm a, c Khoản 1, Khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 285/KL- KTHS (MT) bên trong chứa 0,247g ma túy, loại Methamphetamine trong niêm phong ghi ký hiệu M1, 01 vỏ túi nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định; 01 hộp giấy cứng màu đỏ kích thước (9x9)cm, bên trong có 01 coóng thủy tinh dài 8cm, đường kính 0,2cm; 01 ống hút nhựa màu hồng dài 20cm, đường kính 0,2cm; 01 ống hút nhựa màu hồng dài 10cm, đường kính 0,2cm; 01 nắp vỏ chai nhựa màu xanh hình tròn, đường kinh 2,5cm có 02 lỗ thủng hình tròn đường kính 0,2cm, 01 ống kim loại dài 6cm; 01 ống hút nhựa màu hồng dài 7,5cm, đường kính 0,2 cm một đầu được bịt kín.

Tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại Nokia màu đen đã cũ có số IMEI: 353482155877858/353482157877856, bên trong lắp thẻ sim Viettel có ghi dãy số 8984048000060309186.

Trả lại bị cáo 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại Iphone 7 Plus vỏ màu đen đã cũ có số IMEI: 35860090769697, bên trong lắp thẻ sim Vinaphone có dãy số 89840200010X370363.

Trả lại ông Đào Văn P 01 xe mô tô nhãn hiệu DREAM màu sơn nâu, BKS:

34F7-X, số khung 100*200003683, số máy EC150FMG*00681528* (Số lượng và đặc điểm của vật chứng theo Phiếu nhập kho ngày 18/9/2023 giữa Công an và Chi cục THADS huyện Tiên Lữ ) Về án phí: Bị cáo Đào Văn Ph phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai có mặt bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án được quyền kháng cáo lên Tòa án tỉnh Hưng Yên để xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lữ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;