TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ M’GAR, TỈNH ĐĂK LĂK
BẢN ÁN 42/2021/HSST NGÀY 28/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 7 năm 2021, tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Cư M’gar mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2021/TLST-HS, ngày 30 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 43/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lưu Văn B; Sinh năm 1997, tại tỉnh Đồng Nai;
Nơi cư trú: Buôn S, xã H, huyện G, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: Buôn bán;
Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không;
Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lưu Văn P, sinh năm 1969 và bà: Trần Thị A, sinh năm 1972; Bị cáo có vợ là Trịnh Thị T, sinh năm 1999, có 01 con, sinh năm 2020, hiện vợ và con đang sinh sống tại: Buôn S, xã H, huyện G, tỉnh Đắk Lắk; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;
Bị cáo đang bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/3/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk; Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị A, sinh năm 1972. Có mặt.
Địa chỉ: Buôn S, xã H, huyện G, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng tháng 12 năm 2020, Lưu Văn B sinh năm 1997, trú tại: Buôn S, xã H, huyện G, tỉnh Đắk Lắk thông qua mạng Internet đã đặt mua từ nước ngoài 5.000.000 đồng ma tuý loại Ketamine. Đến ngày 22/3/2021, qua kiểm tra đơn hàng, Lưu Văn B biết được ma tuý của B mua đã được chuyển đến Bưu điện huyện G. Sau đó, Lưu Văn B điều khiển xe mô tô biển số 47H1 – 385.67 đi từ nhà ra Bưu điện huyện G để lấy ma tuý. Đến khoảng 16 giờ 00 phút cùng ngày, tại khu vực Bưu điện huyện G thuộc tổ dân phố 4, thị trấn C, huyện G, tỉnh Đắk Lắk, Lưu Văn B đang nhận 01 gói giấy có kích thước (10 x 20)cm bên ngoài ghi chữ tiếng nước ngoài, bên trong gói giấy có một tờ giấy A4 được xếp lại, bên trong tờ giấy A4 có một túi ny lon có kích thước (10 x 14,5)cm, bên trong túi ny lon có chất rắn dạng tinh thể màu trắng thì bị lực lượng Công an huyện G phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Lưu Văn B khai nhận số chất rắn dạng tinh thể màu trắng nêu trên là ma tuý, loại Ketamine được B đặt mua từ nước Hà Lan về để sử dụng. Công an huyện G đã tiến hành tạm giữ và niêm phong tang vật theo quy định.
Tại bản Kết luận giám định số 363/GĐMT-PC09 ngày 30/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng là 9,9475 gam, loại Ketamine.
Hoàn lại đối tượng giám định: Mẫu vật còn lại sau khi giám định: chất rắn màu trắng có khối lượng 7,9207 gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu.
Tại biên bản xét nghiệm chất ma tuý ngày 22/3/2021 của Trung tâm y tế huyện G, xác định Lưu Văn B dương tính với Amphetamine.
Qúa trình điều tra Lưu Văn B còn khai nhận: Trước đó, vào tháng 11/2019 với cách thức đặt mua ma tuý như trên, B đã đặt mua 2.000.000 đồng ma tuý loại Ketamine để về sử dụng.
Về thu giữ, xử lý vật chứng của vụ án. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar đã thu giữ vật chứng gồm:
Mẫu vật còn lại sau khi giám định: chất rắn màu trắng có khối lượng 7,9207 gam và toàn bộ bao gói đựng mẫu vật gửi giám định ban đầu.
01 điện thoại di động hiệu Iphone XS MAX, màu vàng đen, số IMEI 1: 353105105670574, số IMEI 2: 353105105601348 là phương tiện Lưu Văn B sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
01 thẻ sim điện thoại số 0969315735 liên quan đến hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu huỷ.
01 xe mô tô biển số 47H1 – 385.67, nhãn hiệu: Honda, số loại: SH MODE, màu sơn: đỏ đen, là tài sản của bà Trần Thị A sinh năm 1972, trú tại buôn S, xã H, huyện G, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 03/6/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô trên cho bà Trần Thị A.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện của mình như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Công an tỉnh Đăk Lắk đã nói trên.
Tại bản Cáo trạng số 43/KSĐT-HS, ngày 28 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar để xét xử đối với bị cáo Lưu Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Qua phần tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên đưa ra các chứng cứ buộc tội và đánh giá tính chất mức, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Đồng thời vẫn giữ nguyên toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo B nói trên, đưa ra các tình tiết về trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Lưu Văn B từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 22/3/2021.
Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 46, khoản 1 và khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 7,9207 gam loại Ketamine còn lại sau giám định.
Tịch thu tiêu hủy 01 thẻ sim điện thoại số 0969315735 liên quan đến hành vi phạm tội.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS MAX, màu vàng đen, số IMEI 1: 353105105670574, số IMEI 2: 353105105601348 là phương tiện Lưu Văn B sử dụng vào việc phạm tội.
Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô biển số 47H1 – 385.67, nhãn hiệu:
Honda, số loại: SH MODE, màu sơn: đỏ đen, cho bà Trần Thị A sinh năm 1972 là chủ sở hữu hợp pháp.
Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và cũng không có ý kiến tranh luận gì thêm đối với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cư M’gar, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư M’gar, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Xét Lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, nên cần chấp nhận.
[2] Về nội dung: Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 22/3/2021 tại khu vực Bưu điện huyện G thuộc tổ dân phố 4, thị trấn C, huyện G, tỉnh Đắk Lắk, Lưu Văn B đã có hành vi tàng trữ trái phép 9,9475 gam Ketamine, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện xử lý.
Tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:
"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) …
g) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam.” Như vậy, căn cứ vào khối lượng ma túy đã thu giữ được, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Hành vi của bị cáo Lưu Văn B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như đã viện dẫn nêu trên.
Xét thấy, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ nhận thức để biết được việc làm của mình là vi phạm pháp luật và gây tác động xấu đối với xã hội. Thế nhưng, do ham muốn thỏa mãn nhu cầu nghiện ngập không lành mạnh và ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, ngoài việc xâm hại đến các chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý chất ma túy còn góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương và là nguồn gốc phát sinh của nhiều loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Trong tình hình hiện nay trên địa bàn huyện G, tình trạng tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy đang diễn ra rất tinh vi phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian, nhằm tác dụng trừng trị, đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo để bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội cũng như biết tôn trọng pháp luật. Ngoài ra, còn đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung, phục vụ cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy tại địa phương.
Tuy nhiên, Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Ngoài ra, bị cáo thuộc gia đình có công với cách mạng, bị cáo là cháu của bà mẹ Việt Nam anh hùng Trương Thị N. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước.
Quá trình điều tra, bị cáo B khai nhận vào tháng 11/2019 B đã đặt mua 2.000.000 đồng ma tuý loại Ketamine để về sử dụng. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không đủ cơ sở để xử lý B về hành vi này là phù hợp.
Trong vụ án này, đối với người bán ma tuý cho bị cáo B, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được người này để xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với bà Trần Thị A là chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển số 47H1 – 385.67 không biết việc Lưu Văn B sử dụng xe mô tô biển số 47H1 – 385.67 vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar không đề cập xử lý là phù hợp.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của Lưu Văn B, Công an huyện Cư M’gar đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp.
[3] Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 46, khoản 1 và khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, cần tuyên tịch thu tiêu hủy: 7,9207 gam ma túy loại Ketamine còn lại sau giám định.
01 thẻ sim điện thoại số 0969315735 liên quan đến hành vi phạm tội.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS MAX, màu vàng đen, số IMEI 1: 353105105670574, số IMEI 2: 353105105601348 là phương tiện Lưu Văn B sử dụng vào việc phạm tội.
Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô biển số 47H1 – 385.67, nhãn hiệu: Honda, số loại: SH MODE, màu sơn: đỏ đen cho bà Trần Thị A sinh năm 1972 là chủ sở hữu hợp pháp.
[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: bị cáo Lưu Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Lưu Văn B 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 22/3/2021.
Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 46, khoản 1 và khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy: 7,9207 gam ma túy loại Ketamine còn lại sau giám định.
01 thẻ sim điện thoại số 0969315735 liên quan đến hành vi phạm tội.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS MAX, màu vàng đen, số IMEI 1: 353105105670574, số IMEI 2: 353105105601348 là phương tiện Lưu Văn B sử dụng vào việc phạm tội.
Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư M’gar đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô biển số 47H1 – 385.67, nhãn hiệu:
Honda, số loại: SH MODE, màu sơn: đỏ đen cho bà Trần Thị A sinh năm 1972 là chủ sở hữu hợp pháp.
Về án phí:
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Lưu Văn B phải nộp 200.000đồng án phí HSST.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 42/2021/HSST
Số hiệu: | 42/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư M'gar - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về