Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 41//2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 41//2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Hoàng Văn T, sinh năm 1988, tại Hà Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 1, phường Thanh T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Tổ 7, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị H sinh năm 1964; vợ, con: Chưa có; tiền án: Ngày 12/12/2008, bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Ngày 18/01/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum xử phạt 30 tháng tù tề tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 12/42016 bị Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/12/2020; tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 13/4/2007 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại bản án này giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000đ. Ngày 31/7/2007 bị Công an huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam ra Quyết định xư phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 200.000đ về hành vi “Đánh nhau”.

Bị bắt tạm giữ ngày 24/12/2021 đến ngày 30/12/2021 chuyển tạm giam cho đến nay. Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Hoàng Văn T1, sinh năm 1995. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Xuân K, sinh năm 1982. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 24/12/2021 Hoàng Văn T đi bộ đến khu vực ngã tư thuộc thôn Q, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam để tìm mua ma túy sử dụng thì gặp một người đàn ông khoảng 50 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ) hỏi mua hàng, ý T hỏi mua ma túy, người đàn ông bảo lấy loại gì, T bảo lấy ngựa, sau đó T đưa cho người đàn ông đó 1.500.000đ, người đàn ông cầm tiền và điều khiển xe mô tô đi khoảng 15 phút quay lại đưa cho T 01 túi nilon màu xanh có mép dán, bên trong có 33 viên nén màu hồng. T biết đó là ma túy nên cất vào trong túi quần phía trước bên phải đang mặc. Khi T đi đến khu vực tổ 7, phường T, thành phố P thì bị lực lượng Công an phường T, thành phố P đang làm nhiệm vụ tuần tra thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Tại chỗ T tự giác giao nộ số ma túy vừa mua được cho lực lượng Công an và khai nhận đó là gói ma túy T mua về để sử dụng. Lực lượng Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Hoàng Văn T và thu giữ vật chứng gồm: 01 túi nilon màu xanh có mép dán, bên trong có chứa 33 viên nén màu hồng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 căn cước công dân mang tên Hoàng Văn T. Cùng ngày Công an phường T củng cố hồ sơ chuyển cùng vật chứng và đối tượng Hoàng Văn T đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Thực hiện lệnh khám xét đối với chỗ ở của Hoàng Văn T tại tổ 7, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 270/PC09-MT ngày 29/12/2021của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 3,151gam, loại Methamphetamine”.

Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKS-PL ngày 21 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Hoàng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiện hình sự, nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm o khoản 2, Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50, Bộ luật Hình sự đối với bị cáo,để xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm 6 tháng tù.

Bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Methamphethamine đã thu giữ hoàn trả sau giám định cùng bao gói. Giao cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền tạm giữ và trả lại bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Hoàng Văn T khi chấp hành xong hình phạt tù.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Hoàng Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lỷ, tỉnh Hà Nam. Bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Các chứng cứ thu thập trong hồ sơ là hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng và người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử và công bố lời khai theo đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ buộc tội kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 24 tháng 12 năm 2021 tại tổ 7, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Hoàng Văn T đã bị kết án với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm”, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi cất giữ trái phép khối lượng 3,151gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường T, thành phố P phát hiện, bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Hoàng Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính; bốn lần bị xét xử về nhóm tội xâm phạm sở hữu, chấp hành xong hình phạt tù 12/12/2020; hiện còn ba tiền án đều chưa xóa án tích về tội với lỗi cố ý, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng định khung (tái phạm nguy hiểm) do vậy không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Phủ Lý. Bị cáo đã bị kết án với tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý thể hiện bị cáo là người khó cải tạo và bất chấp pháp luật. Do vậy Hội đồng xét xử thấy cần phải ra mức hình phạt tù có thời hạn nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện để cải tạo, giáo dục chính bị cáo và nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa chung trong cộng đồng. Khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo để ấn định mức hình phạt cho phù hợp.

- Hình phạt bổ sung: Xét mục đích phạm tội của bị cáo không nhằm thu lời bất chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Đối với số ma túy loại Methamphetamine được hoàn trả sau giám định cùng bao gói là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 căn cước công dân mang tên Hoàng Văn T là giấy tờ hợp pháp của bị cáo không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo. Tuy nhiên cần giao cơ quan thi hành án himhs sự có thẩm quyền tạm giữ và trả bị cáo khi chấp hành xong hình phạt tù theo quy định của Luật Căn cước công dân..

[7] Về các vấn đề khác của vụ án:

- Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ: Bị cáo khai mua của một người dàn ông khoảng 50 tuổi không biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực ngã tư thôn Q, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam tiến hành xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo không còn tài liệu chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý trách nhiệm đối với người đã bán ma túy cho bị cáo trong vụ án này.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Hoàng Văn T phải nộp theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o khoản 2, Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Xử phạt:

- Bị cáo Hoàng Văn T 07 (bẩy) năm 6 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/12/2021.

2/ Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong số 270/PC-09-MT mặt trước phong bì ghi “mẫu vật hoàn trả QT01”, tại mép dán mặt sau có các chữ ký của Đỗ Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Thi Bích Hồng Hương, đóng 03 dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

- Giao Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Ha Nam tam giữ và trả lại bị cáo Hoàng Văn T 01 căn cước công dân số 035088005467 mang tên Hoàng Văn T khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam với Chi cục thi hành án dân sự, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ngày 22 tháng 3 năm 2022.

4/ Án án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Hoàng Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 41//2022/HS-ST

Số hiệu:41//2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;