TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 41/2021/HSST NGÀY 24/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24/11/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 48/2021/HSST ngày 03/11/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2021/QĐXX-HS ngày 12/11/2021 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Lò Văn H. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam.
Sinh năm 1987. Tại Điện Biên Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản M, xã T, huyện Đ, tỉnh Đ. Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 10/12; Con ông: Lò Văn L, (đã chết). Con bà: Lò Thị L, sinh năm 1965; bị cáo chưa có vợ con: Tiền án, tiền sự: Không: Nhân thân: Chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị Tòa xét xử. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 20/9/2021 có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 20/9/2021, sau khi uống methadone ở trạm y tế xã T, huyện Đ, H đi bộ ra khu vực bờ mương thuộc bản M, xã T tìm mua ma túy để sử dụng. Tại đây H gặp và mua được của một người đàn ông khoảng 30 tuổi không biết tên địa chỉ 03 viên Methamphetamine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng với giá 100.000đ. Sau khi mua được ma túy, H cầm ở tay trái rồi đi bộ về nhà. Hồi 10 giờ cùng ngày khi H vừa về đến nhà thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng T phối hợp với Công an xã T vào kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ tại tay trái H 01 gói nilon màu trắng bên trong có 03 viên Methamphetamine.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 21/9/2021 đã xác định: 03 viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp có khối lượng 0,31 gam gửi toàn bộ giám định.
Tại bản kết luận giám định số 1101/GĐ-PC09 ngày 27/9/2021 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn H gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine có hoàn lại đối tượng sau giám định là 0,29 gam.
Tại bản cáo trạng số 292/CT-VKSĐB ngày 02/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Lò Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Xử phạt bị cáo Lò Văn H từ 15 tháng đến 18 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xử lý vật chứng.
Căn cứ Khoản 2 Điều 136/ BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn H một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã trình bày ở trên. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Đ, không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hồi 10 giờ ngày 20/9/2021 tại nhà của mình ở bản M xã T, huyện Đ, Lò Văn H đã bị bắt quả tang khi đang tàng trữ 03 viên Methamphetamine. Nguồn gốc số ma túy có được do H đi bộ ra bờ mương thuộc bản M xã T mua được của một người đàn ông khoảng 30 tuổi không biết tên địa chỉ với giá 100.000đ. Bị cáo đem về chưa kịp sử dụng thì bị bắt.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Vật chứng thu giữ của bị cáo đã được cân xác định khối lượng là 0,31 gam kết luận giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định; Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Từ những chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Hành vi tàng trữ 0,31 gam Methamphetamine trên người mục đích để sử dụng của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Cáo trạng của VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cóa có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.
[2]. Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phậm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Song vì nhu cầu của bản thân bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần xử lý bị cáo nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy:
Bị cáo sinh ra và lớn lên tại huyện Đ. Bản thân được học đến lớp 10/12 nghỉ học, bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2006. Chưa có tiền án, tiền sự trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy nên cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo và có thời gian cai nghiện ma túy.
Xét đề nghị của đại diện VKS là phù hợp với với tính chất mức độ hành vi của bị cáo nên HĐXX chấp nhận.
[4]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét kinh tế bị cáo khó khăn, bản thân lại nghiện chất ma tuý, nên không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đối với người đàn ông khoảng 30 tuổi bị cáo đã gặp tại khu vực bờ mương thuộc bản M, xã T, huyện Đ đã bán ma túy cho bị cáo, do không biết tên và địa chỉ nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được. HĐXX không xem xét.
[5]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.
[6]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.
Tịch thu tiêu huỷ: 0,31 gam Methamphetamine gửi toàn bộ giám định được hoàn lại 0,29 gam.
[7].Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS.
1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
2. Xử phạt bị cáo Lò Văn H 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (ngày 20/9/2021)
3. Vật chứng: Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu huỷ: 0,31 gam Methamphetamine gửi toàn bộ giám định được hoàn lại 0,29gam (Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 03/11/2021).
4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án bị cáo Lò Văn H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 24/11/2021)
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 41/2021/HSST
Số hiệu: | 41/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về