Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 41/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 41/2021/HSST NGÀY 11/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn Kh, sinh năm 1994 tại Sơn La; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản Ch, xã CS, huyện Mường La, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: Lớp 12/12; Con ông Lò Văn S và bà Lò Thị M; Vợ, con: Chưa; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị bắt từ ngày 14/12/2020 đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Bùi Văn Th, sinh năm 1997 tại Thanh Hóa; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn ĐM, xã ML, h. Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 06/12; Con ông Bùi Văn Nh và bà Quách Thị B; Vợ, con:

Chưa; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Không; Bị cáo bị bắt từ ngày 14/12/2020 đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Trịnh Xuân Q, sinh năm 1979; Nơi cư trú: Số B, KT, CK, huyện Thanh Oai, Tp. Hà Nội (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lò Văn Kh và Bùi Văn Th cùng làm thuê cho anh Trịnh Xuân Q tại công trường khu đô thị NTL, Hà Nội. Khoảng 12h00 ngày 14/12/2020, sau khi được anh Q cho ứng trước tiền công, Kh rủ Th đi mua ma túy về sử dụng, mỗi bị cáo góp 100.000 đồng, Th cầm tiền. Sau đó, Kh điều khiển xe máy biển kiểm soát 29M3 – 8509 chở Th đi lên khu vực thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên và dừng xe ở ven đường QL3, Th cầm tiền đi bộ đến trước cửa một nhà ven đường đưa 200.000 đồng qua khe cửa và nhận lại 02 gói giấy bên trong chứa ma túy loại heroine. Mua xong, Kh chở Th quay về. Khi về đến PN, xã TG, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội thì Cơ quan Công an kiểm tra thu giữ ma túy.

Tại kết luận giám định số 10759/KLGĐ-PC09 ngày 21/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy thu giữ của Bùi Văn Th đều là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,169 gam.

Lò Văn Kh và Bùi Văn Th khai: Các bị cáo cùng làm công nhân thời vụ cho anh Trịnh Xuân Q tại công trình khu đô thị NTL. Khoảng 12h ngày 14/12/2020, các bị cáo xin anh Q cho ứng trước tiền công rồi rủ nhau mỗi bị cáo góp 100.000 đồng mua ma túy về sử dụng. Kh mượn xe máy biển kiểm soát 29M3-8509 của anh Q chở Th lên khu vực Phổ Yên, Thái Nguyên, Th cầm 200.000 đồng mua được 02 gói ma túy loại heroine. Khi về đến PN thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Các bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Trịnh Xuân Q vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai có trong hồ sơ thể hiện (BL 55-56): Tháng 12/2018, anh phụ trách công trình xây dựng ở Hải Dương có thuê một người tên là Ch, người Hải Dương làm thời vụ. Khi anh Ch nghỉ làm đã để lại tại công trình 01 xe mô tô, biển kiểm soát 29M3-8509, không có giấy tờ. Do không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của anh Ch nên anh vẫn quản lý và sử dụng xe cho công nhân đi lại trong công trường. Ngày 13/12/2020, anh giao xe này cho Kh sử dụng, việc Kh dùng xe chở Th đi mua ma túy anh không biết, anh không yêu cầu nhận lại xe mô tô nêu trên.

Bản cáo trạng số: 25/CT-VKS ngày 17/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố Lò Văn Kh và Bùi Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn giữ quyền công tố tại phiên tòa trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Lò Văn Kh, Bùi Văn Th mức án từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 14/12/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Bùi Văn Th và Giám định viên; đối với mô tô kiểu Honda Wave S, số máy LC152FMH00579074 đeo biển kiểm soát 29M3-8509, Cơ quan điều tra đã đăng tin tìm chủ sở hữu nhưng đến nay không ai đến nhận, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo pháp luật.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã Th hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã Th hiện đều đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, vì vậy có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 14h00 ngày 14/12/2020 tại khu vực PN, xã TG, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội Lò Văn Kh, Bùi Văn Th có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói giấy bên trong chứa ma túy loại heroine, khối lượng: 0,169 gam. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố Lò Văn Kh, Bùi Văn Th theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm nghiêm trọng đến an ninh trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống cũng như tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó, việc đưa các bị cáo ra truy tố, xét xử trước pháp luật là cần thiết nhằm giáo dục các bị cáo đồng thời góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến tính chất hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân của các bị cáo cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Bộ luật hình sự đã quy định.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về vai trò của các bị cáo: Các bị cáo cùng rủ nhau góp tiền mua ma túy, cùng thực hiện hành vi phạm tội nên là đồng phạm giản đơn và có vai trò ngang nhau trong vụ án.

Xét thấy, các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội thuộc loại tội rất nghiêm trọng. Do vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc là hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Đối với người bán ma túy, do các bị cáo không biết đặc điểm và không nhớ vị trí ngôi nhà mà Th mua ma túy nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, làm rõ.

[4] Đối với anh Trịnh Xuân Q không biết Kh, Th ứng tiền công để mua ma túy nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định về hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với người phạm tội. Xét các bị cáo đều không có nghề nghiệp, thu nhập thấp nên không áp dụng.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Bùi Văn Th và Giám định viên là vật cấm lưu hành trái phép nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S đeo biển kiểm soát 29M3-8509:

Tại Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 06/01/202 thể hiện, chủ sở hữu xe mô tô biển kiểm soát 29M3-8509 là anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1980, trú tại: Tổ dân phố TC, phường TC, quận Bắc Từ Liên, TP. Hà Nội, nhãn hiệu WISE, số khung 00811387, số máy 00682750 (BL 59). Tuy nhiên xe mô tô Cơ quan điêu tra thu giữ đeo biển kiểm soát 29M3-8509 nhãn hiệu Honda Wave, không xác định được số khung, số máy LC152FMH00579074 là số nguyên thủy (BL 47), số máy này không trùng khớp với số máy của xe mô tô biển kiểm soát 29M3-8509 do anh Nguyên Văn Đ là chủ sở hữu. Vì vậy xe mô tô kiểu Honda Wave S, số máy LC152FMH00579074 đeo biển kiểm soát 29M3-8509 là biển số giả.

Cơ quan điều tra xác minh nguồn gốc xe mô tô kiểu Honda Wave S, số máy LC152FMH00579074 xác định: Xe mô tô này do một người tên Ch ở tỉnh Hải Dương là công nhân thời vụ của anh Trịnh Xuân Q bỏ lại tại công trình xây dựng từ tháng 12/2018 nhưng không để lại giấy tờ. Sau đó anh Q quản lý, sử dụng làm phương tiện cho công nhân đi lại. Ngày 13/12/2020, anh Q giao xe cho Kh để đi lại trong khu vực công trình, việc Kh sử dụng xe đi mua ma túy anh Q không biết, anh Q không yêu cầu nhận lại xe. Cơ quan điều tra đã tra cứu thông tin nhưng không tìm thấy cơ sở dữ liệu về nguồn gốc phương tiện giao thông đường bộ theo số máy LC152FMH00579074 (BL 58). Theo thông báo kết quả tra cứu xe máy vật chứng (BL 57) thì biển kiểm soát 29M3 - 8509 và số máy LC152FMH00579074 không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Đồng thời Cơ quan điều tra đã đăng tin tìm chủ sở hữu chiếc xe nói trên trên báo An ninh Thủ đô các ngày 19, 22, 23 và 30/3/2021, nhưng đến nay không ai đến nhận xe. Vì vậy cần tịch thu sung công xe mô tô kiểu Honda Wave, số máy LC152FMH00579074.

Đối với biển kiểm soát 29M3-8509 thuộc xe mô tô của anh Nguyễn Văn Đức, anh Đức đã bán xe từ năm 2003, giá trị sử dụng không còn, cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt Lò Văn Kh 12 (mười hai) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/12/2020.

Xử phạt Bùi Văn Th 12 (mười hai) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/12/2020.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ma túy có chữ ký của Bùi Văn Th và Giám định viên; tịch thu sung công 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S, số máy LC152FMH00579074, số khung không; tịch thu tiêu hủy biển kiểm soát 29M3-8509 (Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an huyện Sóc Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn).

Căn cứ khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niên yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 41/2021/HSST

Số hiệu:41/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;