Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 40/2022/HS-ST NGÀY 26/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2022; Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 30/2022/TLST-HS ngày 27/4/2022; Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2022/QĐXXST-HS ngày 13/5/2022 đối với bị cáo:

Vũ Ngọc H, sinh ngày 17/5/1977 tại huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: Thôn Ch, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không; Nghề ngH: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông Vũ Duy H, sinh năm 1945 và bà Đinh Thị B (đã chết). Vợ: Bùi Thị Y, sinh năm 1984, có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2013. Nhân thân: Năm 1995 tham gia nghĩa vụ Công an nhân dân, năm 1998 xuất ngũ. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/01/2022, đến ngày 15/01/2022 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà, trích xuất có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Bùi Thị Y, sinh năm 1984 Địa chỉ: Thôn Ch, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình

* Người làm chứng:

- Anh Trần Văn T, sinh năm 1982

- Anh Lê Xuân Ph, sinh năm 1976 Đều ở địa chỉ: Thôn T, xã M, huyện H, tỉnh Thái Bình (Chị Y, anh T, anh Ph vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 20 phút, ngày 12/01/2022, tại khu vực cầu Tr thuộc địa phận thôn T, xã M, huyện H; Công an huyện Hưng Hà đã phát hiện, bắt quả tang Vũ Ngọc H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, khi bị kiểm tra, H đã tự giác lấy từ trong túi áo khoác đang mặc giao nộp 01 gói giấy tráng kim màu trắng; 02 bơm kim tiêm; 02 ống Nôvôcain, H khai đó là Hêrôin, mục đích để sử dụng; H khai nguồn gốc Hêrôin mua ở khu vực thị trấn T, huyện Đ của người phụ nữ khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ 01 gói ma túy, loại Hêrôin với giá 200.000 đồng để sử dụng. Công an huyện Hưng Hà đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Ngọc H, cơ quan điều tra không quản lý, thu giữ đồ vật gì liên quan đến hành vi phạm tội.

Bản kết luận giám định số 19/KLGĐMT-PC09 ngày 13/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định thu giữ của Vũ Ngọc H là ma túy loại Hêrôin, khối lượng là 0,1205 gam.

Bản Cáo trạng số 38/CT-VKSHH, ngày 26/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà đã truy tố Vũ Ngọc H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Bị cáo H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như tại bản Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Vũ Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/01/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Ngoài ra đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng, quyết định án phí hình sự theo luật định Bị cáo H không có tranh luận Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Sáng ngày 12/01/2022, bị cáo mua 01 gói ma túy, loại Hêrôin của người phụ nữ không biết tên, địa chỉ ở khu vực thị trấn T, huyện Đ với giá 200.000 đồng, mục đích để sử dụng, đến khoảng 09 giờ 20 phút cùng ngày khi đi về đến khu vực cầu Tr thuộc địa phận thôn T, xã M, huyện H thì bị phát hiện bắt quả tang, lời khai của bị cáo phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng anh Trần Văn T, anh Lê Xuân Ph. Ngoài ra còn được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu; Bản kết luận giám định số 19/KLGĐMT-PC09 ngày 13/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. Như vậy có đầy đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Điều 249 BLHS: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm …………… c) Hêrôin, Cocain, Methamphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

………..

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” [3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả vụ án cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ma túy là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm nguy hiểm, tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội, vì vậy pháp luật Nhà nước ta đã có những chế tài nghiêm khắc đối với loại tội phạm này nhằm hạn chế và tiến tới xóa bỏ ma túy khỏi đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình phạm tội, bị cáo đã tàng trữ trái phép 0,1205 gam hêrôin, như vậy đã phạm vào tình tiết quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy cần phải có hình phạt nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo bị cáo nói riêng cũng như phòng chống tội phạm nói chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng xét bị cáo khai báo thành khẩn, có thời gian tham gia nghĩa vụ Công an nhân dân. Do đó cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[4] Bị cáo mục đích tàng trữ trái phép ma túy là để sử dụng cho bản thân, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo [5] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của người phụ nữ, không biết tên, địa chỉ ở khu vực thị trấn Tiên Hưng, huyện Đông Hưng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà đã tiến hành điều tra, xác minh, không xác định được người bán ma túy cho bị cáo nên không có căn cứ xử lý người bán ma túy cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu toàn bộ số ma túy đựng trong phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật sau giám định số: 19/KLGĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình, 02 ống Nôvôcain, 02 bơm kim tiêm để tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu xanh, biển kiểm soát 17B4-xxxxx mà bị cáo dùng để đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của chị Bùi Thị Y (vợ bị cáo), chị Yến không biết bị cáo lấy xe để đi mua ma túy, do vậy cần trả lại chiếc xe này cho chị Yến.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1.Tuyên bố bị cáo Vũ Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Ngọc H: 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/01/2022.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu toàn bộ số ma túy đựng trong phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật sau giám định số: 19/KLGĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình, 02 ống Nôvôcain, 02 bơm kim tiêm để tiêu hủy.

- Trả lại chị Bùi Thị Y 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu xanh, biển kiểm soát 17B4-xxxxx.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Vũ Ngọc H phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Yến có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2022/HS-ST

Số hiệu:40/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;