Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ C, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 40/2022/HS-ST NGÀY 17/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17/3/2022 tại Tòa án nhân dân Thị xã C, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 29/2022/HSST ngày 24 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn P, sinh năm: 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: Số 105/15, đường Nguyễn N, phường 9, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Khu phố 6, phường H, Thị xã C, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn H, sinh năm: 1962 và bà Nguyễn T, sinh năm: 1964; tiền án:

+ Ngày 17/8/2011, bị Tòa án nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 187/2011/HSST đối với hành vi thực hiện ngày 24/02/2011, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/6/2017, chấp hành xong án phí hình sự ngày 25/11/2011.

+ Ngày 18/01/2019, bị Tòa án nhân dân Thị xã C, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 08/2019/HS- ST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/7/2020, chấp hành xong án phí ngày 10/5/2019.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/8/2021 cho đến nay – có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần K, sinh năm 1998; hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã H, huyện N, tỉnh Cà Mau – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 02/8/2021, tại đoạn đường TC1, thuộc khu phố 6, phường H, Thị xã C, tỉnh Bình Dương, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma tuý Công an Thị xã C phối hợp Công an phường H tuần tra thì phát hiện Nguyễn P đang điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vario, biển số 69E1-531.22, chở Trần Ngọc Trâm ngồi sau, chạy trên đường có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe lại kiểm tra hành chính. Lực lượng Công an phát hiện 01 gói nylon kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng bên trong, P khai chất tinh thể màu trắng trong gói nylon là ma túy đá (Methamphetamine) của P mua về để sử dụng nên lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với P.

Vật chứng thu giữ gồm:

+ 01 gói nylon kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng bên trong + 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vario, màu tím biển số 69E1-531.22 + 01 điện thoại di động hiệu Oppo, có sim số 0941.411.596 + 01 vỏ hộp cục xạc dự phòng màu đen chữ “Hoco”.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn P khai nhận: P bắt đầu sử dụng ma túy đã từ đầu năm 2010. Khoảng 14 giờ ngày 26/7/2021, P dùng điện thoại di động hiệu Oppo gắn sim số 0941.411.569 liên lạc với Cu (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy đá để sử dụng. Cu đồng ý và hẹn giao ma túy cho P ở đường DL14, khu phố 3B, phường Thới Hòa, Thị xã C. Sau đó, P thuê xe mô tô đi đến điểm hẹn thì được Cu bán cho một gói nylon kéo dính chứa ma túy đá, P lấy gói ma túy mua được cất vào túi xách đeo chéo của P. Sau đó, P 02 lần đến nhà Đại Huê thuộc khu phố 2, phường Chánh Phú Hòa, Thị xã C, tỉnh Bình Dương, P lấy một ít ma túy mua được ra sử dụng cùng hai người bạn tên Tùng, Kim (không rõ nhân thân lai lịch). P cất gói nylon chứa số ma túy còn lại, vào vỏ hộp cục sạc dự phòng ghi chữ “Hoco” rồi tiếp tục bỏ vào bên trong túi xách đeo chéo.

Khoảng 14 giờ 30 ngày 02/8/2021, P mượn xe mô tô hiệu Honda biển số 69E1-531.22 của Trần K điều khiển mô tô đến phòng trọ của Trần T ở khu phố 6, phường H, Thị xã C, tỉnh Bình Dương chở T đi chơi. Khi đi, P lấy túi xách đeo chéo có cất giấu ma túy bỏ vào cốp xe. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, P điều khiển xe mô tô biển số 69E1-531.22 đến đoạn đường TC1 thuộc khu phố 6, phường H, Thị xã C, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng Công an Thị xã C yêu cầu kiểm tra hành chính, phát hiện ma túy và bắt giữ P.

Theo Kết luận giám định số 522/MT-PC09 ngày 10/8/2021 của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng/trọng lượng là 2.8348 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật sau giám định được niêm phong, khối lượng: 1,9819 gam Methamphetamine.

Ngày 25/1/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã C xử lý vật chứng, giao trả xe mô tô Honda biển số 69G1-531.22 cho Kha.

Đối với Nguyễn K và Trần T không biết P cất giấu ma túy trong túi xách đeo chéo nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thị xã C không xử lý hình sự đối với Nguyễn K, Trần T là có căn cứ. Ngày 30/8/2021, Công an Thị xã C ra Quyết định xử phạt hành chính số 130 đối với Trần T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, phạt số tiền 300.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 41/CT-VKSBC ngày 24/02/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân Thị xã C, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng như nội dung Cáo trạng nêu trên và không có ý kiến gì khác.

Tại phần tranh luận:

- Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thị xã C trình bày luận tội:

+ Giữ nguyên quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân Thị xã C tại Bản Cáo trạng số 41/CT-VKSBC ngày 24/02/2022 đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

+ Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Nguyễn P từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm 06 tháng tù.

+ Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với mẫu vật còn lại sau giám định và các vật chứng không còn giá trị sử dụng.

- Bị cáo không bào chữa, không phát biểu ý kiến tranh luận, đối đáp với Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật hình sự nên đồng ý với quyết định truy tố của Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, do đó có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn P có hành vi cất giấu 01 túi nylon miệng kéo dính hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, kết quả giám định là ma túy, loại Menthamphetamine, có khối lượng là 2.8348 gam nhằm mục đích để sử dụng. Về nhân thân bị cáo có 02 tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy và tội tang trữ trái phép chất ma túy nhưng chưa được xóa án, nay lại tiếp tục tang trữ trái phép chất ma tuy nên thuộc trường hợp: “Tái phạm nguy hiểm” nên Viện Kiểm sát nhân dân Thị xã C, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp hoàn toàn với hành vi thực tế mà bị cáo đã gây ra.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Ma túy là hiểm họa của toàn xã hội, không những gây tác hại cho sức kho con người mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Do đó, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Methamphetamine) của bị cáo là nguy hiểm, không những xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma tuý mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa P.

Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nghề nghiệp, có sức khỏe nhưng không chí thú làm ăn. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với con người và xã hội, biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo thể hiện thái độ thiếu ý thức, liều lĩnh, xem thường pháp luật. Do đó, đối với bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[3.4] Bị cáo có nhân thân xấu, từng bị kết án về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo không tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cân nhắc đối với nhân thân của bị cáo.

[4] Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thị xã C đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo đã gây ra cũng như nhân thân nên có cơ sở chấp nhận.

[5] Đối với người đàn ông tên C đã bán ma túy cho P: Hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau.

[6] Đối với các đối tượng tên T và K đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau.

[7] Đối với Nguyễn K và Trần T không biết viêc P giấu ma túy trong túi xách đeo chéo nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thị xã C không xử lý hìn sự với K và T là có căn cứ. Ngày 30/8/2021, Công an Thị xã C ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 130 đối với Trần T về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp.

[6] Về vật chứng:

- Kết quả điều tra xác định trọng lượng ma túy (Methamphetamine) thu được là 2,8348 gam; sau giám định còn lại 1,9819 gam. Do đó cần tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại.

- 01 vỏ hộp cục sạc pin dự phòng màu đen ghi chữ: “Hoco” và 01 (một) sim điện thoại số 0941.411.596 dùng để liên lạc mua ma túy nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 Điện thoại di động hiệu Oppo màu đen dùng để liên hệ mua ma túy:

Cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước;

- Đối với xe mô tô hiệu Honda Vario, màu xanh đen, số máy: KF41E2023037, số khung: MH1KF4126LK018827, biển số 69E1-531.22 do ông Trần K đứng tên chủ sở hữu. Ngày 02/8/2021, P mượn xe của ông K đi công việc nhưng lại thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ông K không biết. Ngày 25/1/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thị xã C giao trả xe mô tô hiệu Honda Vario biển số 69E1-531.22 cho ông Trần K là phù hợp.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào Điều 106, Điều 260, Điều 299, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn P 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/8/2021.

2. Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 Bì thư được niêm phong số 522/PC09 có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, trọng lượng: 1,9819 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 255/MT-PC09 ngày 10/8/2021 và Biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 03/8/2021);

+ 01 vỏ hộp sạc pin dự phòng màu đen ghi chữ: “Hoco”.

+ 01 Sim số 0941.411.596.

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen (không kiểm tra được Model, số IMEI, tại thời điểm giao nhận máy không khởi động được).

(Vật chứng đã được giao cho Chi cục Thi hành án dân sự Thị xã C theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/3/2022).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn P phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản án theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

403
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2022/HS-ST

Số hiệu:40/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;