Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 40/2021/HSST NGÀY 23/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 3 năm 2021, tại Phòng xử án Toà án nhân dân quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh – Số 416/2 đường Dương Quảng Hàm, Phường 5, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 14/2021/HSST ngày 21/01/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2021/QĐXXST-HS ngày 01/3/2021, đối với bị cáo:

Lê Ngọc H1; Sinh năm 1983, tại Tp. Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: Số A đường PVC, Phường B, quận G, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Ngọc H2và bà Nguyễn Thị C1; vợ Phạm Thị H3, có 02 con lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt giam từ ngày 06/8/2020 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 18 giờ 00 ngày 05/8/2020, Tổ công tác Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma Túy (C04) - Bộ Công an phát hiện Lê Ngọc H1 và Nguyễn Tấn L1 tại khách sạn Hoa Nắng Mai, địa chỉ 9A đường số 5, phường 17, quận G, TP. Hồ Chí Minh nên Tổ công tác đã triệu tập H1 và L1 về Cơ quan Công an để làm việc do liên quan đến vụ án hình sự « Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra (C04) - Bộ Công an địa chỉ 258 đường Nguyễn Trãi, phường NCT, Quận J, TP.Hồ Chí Minh, Lê Ngọc H1 thừa nhận tàng trữ trái phép chất ma túy và tự nguyện giao nộp. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phong gói nylon chứa ma túy tổng hợp (hàng đá) của Lê Ngọc H1 giao nộp cùng các vật chứng khác để điều tra.

Ti Cơ quan Cảnh sát điều tra, Lê Ngọc H1 và Nguyễn Tấn L1 cùng khai nhận hành vi phạm tội như sau: L1 và H1 quen biết với nhau từ nhỏ, là người cùng xóm và có sử dụng ma túy đá cùng với nhau nhiều lần. Ngày 05/08/2020, L1 đến khách sạn Hoa Nắng Mai, địa chỉ 9A đường số 5, Phường 17, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh thuê phòng 102 để ở. Khoảng 14 giờ cùng ngày, H1 đang ở nhà tại địa chỉ: A đường PVC, Phường B, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh thì nhận được điện thoại di động của L1 số 0902090442 gọi vào số 0907144448 của H1 nhờ H1 mua đồ ăn mang đến phòng 102, khách sạn Hoa Nắng Mai. H1 đồng ý và thuê xe Grab từ nhà H1 đi mua bánh mì và mang đến phòng 102, khách sạn Hoa Nắng Mai thì gặp L1 đang ở trong phòng một mình. Tại đây, L1 và H1 cùng ăn bánh mì. Sau đó, L1 lấy một gói nylon ma túy tổng hợp (hàng đá) để ở trong hộc bàn của khách sạn và đổ một ít ma túy vào trong bộ dụng cụ rồi cùng với H1 sử dụng, số ma túy còn lại trong gói nylon L1 để lên trên bàn trong phòng. Sau khi sử dụng ma túy xong, L1 cho H1 gói nylon chứa ma túy còn lại mà L1 để trên bàn trong phòng để H1 mang về sử dụng. H1 lấy gói ma túy bỏ vào trong túi áo bên trái trước ngực đang mặc rồi cùng với L1 đi xuống quầy lễ tân để trả phòng. Trong khi đang làm thủ tục trả phòng thì bị Tổ công tác Cục CSĐTTP về Ma Túy (C04) - Bộ Công an đến yêu cầu L1 và H1 về trụ sở Cơ quan Cảnh sát điều tra - Bộ Công an tại địa chỉ 258 đường Nguyễn Trãi, phường NCT, Quận J, Thành phố Hồ Chí Minh để làm việc. Lúc này, H1 đang cất giấu gói nylon ma túy tổng hợp (hàng đá) của L1 vừa cho trong túi áo bên trái trước ngực đang mặc nên đã tự nguyện giao nộp. L1 khai, nguồn gốc số ma túy L1 cho H1 là của Trần Thanh S1, bạn quen biết của L1.

Ti Cơ quan điều tra Trần Thanh S1 khai nhận: S1 và L1 là bạn bè quen biết ngoài xã hội. Vào khoảng ngày 03/08/2020, L1 có sang nhà trọ của S1 tại địa chỉ: E ấp BL, xã BĐ, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh và S1 có lấy ma túy tổng hợp (hàng đá) và cùng sử dụng ma túy với L1 tại đây. Sau khi sử dụng ma túy xong thì L1 đi về. Bản thân S1 không thừa nhận việc cho L1 ma túy để sử dụng. Sau khi bị bắt, thì S1 cũng được biết L1 cũng bị bắt giữ cùng với H1, S1 không biết nguồn gốc số ma túy mà Công an thu giữ của L1 và H1. Ngoài lời khai của Nguyễn Tấn L1 ra, không còn căn cứ nào khác chứng minh việc S1 cho L1 ma túy mang về sử dụng, nên không có căn cứ để xử lý S1 đồng phạm với L1 và H1 về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Hành vi của Lê Ngọc H1 và Nguyễn Tấn L1 đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, do Nguyễn Tấn L1 đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra (C04) - Bộ Công an khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" và khởi tố bổ sung tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" (đồng phạm trong vụ án "Tàng trữ trái phép chất ma túy" với Lê Ngọc H1); Trần Thanh S1 cũng bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Bộ Công an khởi tố bị can về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Do đó, hoạt động điều tra giải quyết vụ án "Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy" đối với các bị can S1 và L1, Cơ quan Cảnh sát điều tra (C04) - Bộ Công an đang tiếp tục giải quyết theo quy định của pháp luật. Cơ quan Cảnh sát điều tra (C04) - Bộ Công an tách hồ sơ vụ án Lê Ngọc H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và chuyển hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận G thụ lý điều tra.

Ti Cơ quan điều tra, Công an quận G, Tp. Hồ Chí Minh, Lê Ngọc H1 đã khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên.

Ti Bản Kết luận giám định số 4070/C09B ngày 11/8/2020 của Phân viên Khoa học hình sự tại Tp. Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Ngọc H1 và hình dấu Công an Phường NCT, Quận J, Tp. Hồ Chí Minh là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,9924 gam, loại Methamphetamine.

Ti bản cáo trạng số 26/CT–VKS ngày 20/01/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận G, Tp. Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Ngọc H1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Ti phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận G, Tp. Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để áp dụng đối với bị cáo và đề nghị xử phạt bị cáo Lê Ngọc H1 từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận G, Tp. Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận G, Tp. Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Ngọc H1 tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Việc truy tố, luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận G, Tp. Hồ Chí Minh đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo đã cất giấu số lượng ma túy có khối lượng 0,9924 gam, loại Methamphetamine. Đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Ngọc H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, ma túy còn là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy và đường lối xử lý của pháp luật rất nghiêm minh nhưng vì muốn thỏa mãn cơn nghiện của bản thân nên đã bất chấp, cố ý phạm tội. Vì vậy, cần xử lý nghiêm minh, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[4]. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn, hối cải, bị cáo có cha và ông ngoại là người có công với đất nước nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5]. Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5, Điều 249 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo, nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6]. Đối với hành vi của Trần Thanh S1, Nguyễn Tấn L1, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an đang giải quyết nên không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[7]. Về xử lý vật chứng:

[7.1]. Đối với gói nylon chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Ngọc H1 và hình dấu Công an Phường NCT, Quận J, Tp. Hồ Chí Minh là vật Nhà nước cấm lưu hành và sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;

[7.2]. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số sim 0907144448 là tài sản cá nhân của bị cáo H1 không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo Lê Ngọc H1;

[8]. Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.

[9]. Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc H1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc H1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/8/2020.

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Điu 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

+Tch thu tiêu hủy gói nylon chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Ngọc H1 và hình dấu Công an Phường NCT, Quận J, Tp. Hồ Chí Minh;

+Trả lại cho bị cáo Lê Ngọc H1 01 điện thoại di động hiệu Samsung, số sim 0907144448;

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 289/PNK ngày 31/12/2020 của Công an quận G, Thành phố Hồ Chí Minh).

Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Tng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, 7a, 7b, Điều 9 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2021/HSST

Số hiệu:40/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;