Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 39/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ C, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 39/2022/HS-ST NGÀY 17/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 3 năm 2022 tại Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/2022/HSST ngày 25 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn T, sinh năm: 1998 tại tỉnh Đồng Tháp; hộ khẩu thường trú: Ấp V, xã B, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn:

10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông M, sinh năm:

1971 và bà Võ G, sinh năm: 1972; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt quả tang tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/9/2021 cho đến nay – có mặt.

2. Trần B, sinh năm: 2002 tại tỉnh Đồng Tháp; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã B, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; chỗ ở: Khu phố N, phường L, thị xã C, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Trần L, sinh năm: 1978 và bà Lê T, sinh năm: 1984; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt quả tang tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/9/2021 cho đến nay – có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần T, sinh năm: 1992; hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố 1, thị trấn Buôn Trấp, huyện A, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở: Số 86, đường Huỳnh L, phường L, thành phố M, tỉnh Bình Dương – vắng mặt, có đơn đề nghị vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 30 phút, ngày 21/09/2021 tại khu vực đường hẻm trước nhà thờ họ P, cách đường DT741 khoảng 100m, thuộc khu phố H, phường L, thị xã C, tỉnh Bình Dương, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy Công an thị xã C phối hợp với công an phường L tuần tra, phát hiện Nguyễn T (Nguyễn T) đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Winner, biển số 47L1 297.72 chở Trần B có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu T dừng xe. Lực lượng công an phát hiện trên gác ba-ga của xe mô tô biển số 47L1 297.72 có 01 (một) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (T khai là ma túy đá). Lực lượng công an lập biên bản bắt quả tang đối với Nguyễn T (Nguyễn T) và Trần B và mời T, B về trụ sở làm việc. Tang vật thu giữ:

- 02 (Hai) gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng.

- 01 (Một) hộp giấy loại đựng chai keo 502.

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh đen bên trong gắn sim thuê bao số 0584.913.118.

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Winner, biển số 47L1 297.72, số khung:

RLHKC3702KY019743, số máy: KC34E1U29491.

Tại cơ quan điều tra công an thị xã C, Nguyễn T (Nguyễn T), Trần B khai:

Nguyễn T và Trần B là bạn bè quen biết ngoài xã hội và đều sử dụng trái phép chất ma túy. Nguồn ma túy T, B có để sử dụng là do T mua của đối tượng Nhân (không rõ lai lịch) ở khu vự vòng xoay thuộc phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương.

Vào khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 20/09/2021 T điều khiển xe mô tô hiệu Winner, biển số 47L1 297.72 đón B ở trước phòng trọ ở khu vực chợ H thuộc khu phố N, phường L, thị xã C, tỉnh Bình Dương đi chơi. Sau đó, T, B về phòng trọ của L (không rõ lai lịch) ở phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương ngủ. Đến khoảng 08 giờ, ngày 21/9/2021, B nhờ T chở về phòng trọ tại nhà trọ N thuộc khu phố N, phường L, thị xã C, tỉnh Bình Dương. T đồng ý và điều khiển xe mô tô hiệu Winner, biển số 47L1 297.72 chở B về. Trên đường đi T rủ B mỗi người góp 150.000 đồng mua ma tuý đem về sử dụng. B đồng ý và đưa cho T 150.000 đồng. T điện thoại cho đối tượng Nhân hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá. N đồng ý hẹn giao ma túy tại khu vực vòng xoay gần trường Đại học Quốc tế Miền Đông phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương. T chở B đến điểm hẹn đứng chờ khoảng 10 phút thì N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirius (không rõ biển số) đến gặp T. T đưa cho N 300.000 đồng, N bỏ 01 (một) gói ma túy đá (M2) vào trong túi quần jean bên phải, phía trước T đang mặc đồng thời đưa cho T 01 (một) hộp giấy loại đựng chai keo 502 bên trong có 01 (một) gói ma túy đá (M1). T đem hộp giấy chứa ma túy đá (M1) để trên gác ba-ga của xe mô tô biển số 47L1 297.72 sau đó chở B quay về tìm chỗ sử dụng. Khi T chở B về đến khu vực đường hẻm trước nhà thờ họ Phan, cách đường DT741 khoảng 100 mét, thuộc khu phố H, phường L, thị xã C, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng công an thị xã C yêu cầu dừng xe để kiểm tra, phát hiện bắt quả tang như trên.

Theo Kết luận giám định số 627/MT-PC09 ngày 24/09/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng là M1= 0,1887gam; M2=0,3231gam, loại MeTmphetamine (Tổng cộng là 0,5118 gam MeTmphetamine).

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Winner, biển số 47L1 297.72 , số khung: RLHKC3702KY019743, số máy: KC34E1U29491 của Trần M đứng tên chủ sở hữu . Khoảng 10 giờ ngày 20/09/2021, T hỏi mượn xe mô tô biển số 47L1 297.72 của T để đi công việc. T không biết T sử dụng xe để đi mua ma túy. Ngày 16/02/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã C ra quyết định xử lý vật chứng giao trả xe cho Trần T.

Tại Cáo trạng số 42/CT-VKSBC ngày 25/02/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn T, Trần B về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng như nội dung Cáo trạng nêu trên và không có ý kiến gì khác.

Tại phần tranh luận:

- Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C trình bày luận tội:

+ Giữ nguyên quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C tại Bản Cáo trạng số 42/CT-VKSBC ngày 25/02/2022 đối với các bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy ;

+ Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Xử phạt bị Nguyễn T và Trần B từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

+ Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với mẫu vật còn lại sau giám định,công cụ dùng vào việc tàng trữ ma túy và các vật chứng không còn giá trị sử dụng. Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước điện thoại bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy.

- Các bị cáo không bào chữa, không phát biểu ý kiến tranh luận, đối đáp với Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Các bị cáo nhận thức hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật hình sự nên đồng ý với quyết định truy tố của Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, do đó có đủ cơ sở kết luận: Nguyễn T, Trần B có hành vi cất giấu 02 bịch nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng, kết quả giám định là ma túy, loại Menthamphetamine, có tổng khối lượng 0,5118 gam để sử dụng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng số 42/CT-VKSBC ngày 25/02/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn T, Trần B với tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, phù hợp hoàn toàn với hành vi thực tế mà các bị cáo đã gây ra.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Ma túy là hiểm họa của toàn xã hội, không những gây tác hại cho sức khoẻ con người mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Do đó, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Mehamphetamine) của các bị cáo là hết sức nguy hiểm, không những xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma tuý mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa phương.

Bản thân các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nghề nghiệp, có sức khỏe nhưng không chí thú làm ăn. Các bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với con người và xã hội, biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo thể hiện thái độ thiếu ý thức, liều lĩnh, xem thường pháp luật. Do đó, đối với các bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Xét vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo T là người rủ rê bị cáo B mua ma túy và trực tiếp liên hệ với đối tượng N mua ma túy. Do đó bị cáo T phải chịu mức hình phạt cao hơn so với bị cáo B.

[5] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C về việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi mà bị cáo đã gây ra cũng như nhân thân;

tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được áp dụng nên có cơ sở chấp nhận.

[6] Đối với người đàn ông tên Nhân đã bán ma túy cho T và B: Hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau.

[7] Về vật chứng:

- Kết quả điều tra xác định trọng lượng ma túy (Methamphetamine) thu được là 0,5118 gam; sau giám định còn lại 0,3319 gam. Do đó cần tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại.

- 01 Hộp giấy loại đựng chai keo 502 không còn giá trị sử dụng và 01 sim số 058.491.3118: Cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh đen, bị cáo T sử dụng để liên hệ mua ma túy nên tịch thu sung công Nhà nước.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Winner, biển số 47L1-297.72, số khung RLHKC3702KY019743, số máy KC34E1U29491 do Trần T đứng tên chủ sở hữu. Ngày 20/9/2021, T mượn xe T để đi công việc, T dùng xe mô tô để đi mua ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy Thành không biết. Ngày 16/02/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã C giao trả xe mô tô hiệu Winner, biển số 47L1-297.72 cho Trần T là phù hợp.

[8] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào Điều 106, Điều 260, Điều 299, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn T, Trần B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy .

- Xử phạt bị cáo Nguyễn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/9/2021.

- Xử phạt bị cáo Trần B 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/9/2021.

2. Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 Bì thư được niêm phong ghi số 627/PC09 (M1) có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Khối lượng mẫu vật niêm phong M1 = 0,0891 gam Menthamphetamine (theo kết luận giám định số 627/MT-PC09 ngày 24/9/2021 và Biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 21/9/2021);

+ 01 Bì thư được niêm phong ghi số 627/PC09 (M2) có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương. Khối lượng mẫu vật niêm phong M2 = 0,2428 gam Menthamphetamine (theo kết luận giám định số 627/MT-PC09 ngày 24/9/2021 và Biên bản đóng gói niêm phong và giao nhận đối tượng giám định ngày 21/9/2021);

+ 01 Hộp giấy loại đựng chai keo 502;

+ 01 Sim số 058.491.3118 (không kiểm tra được số Seri).

- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đen (không kiểm tra được Model, số IMEI, tại thời điểm giao nhận máy không khởi động được).

(Vật chứng đã được giao cho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã C theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/3/2022).

3. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn T, Trần B mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản án theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 39/2022/HS-ST

Số hiệu:39/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;