Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN KỲ, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2021/HSST, ngày 15/6/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

41/2021/HSST ngày 18 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Vă T. Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 27/8/1994 tại:

huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: thôn Đ, xã T, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Trình độ học vấn: 09/12; Họ và tên cha: Lê Văn T, sinh năm: 1969; Họ và tên mẹ: Hồ Thị M, sinh năm: 1972, đều cư trú tại: thôn Đ, xã T, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo Lê Văn T bị bắt, tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An từ ngày 22/5/2021 đến nay; Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Dư Đại T, sinh năm: 1960 rú tại: hối 2, thị trấn n ỳ, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy nên vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 22/5/2021, bị cáo Lê Văn T đi nhờ xe của một người đi đường từ nhà ở tại thôn Đ, xã T, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An đến địa bàn huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An tìm mua ma túy về sử dụng hi đi đến khu vực bến xe khách huyện Tân Kỳ thuộc thị trấn Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, bị cáo Lê Văn T xuống xe và đi bộ dọc theo đường Quốc lộ 15B về hướng huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An được một đoạn thì gặp một người đàn ông (nhưng bị cáo T không rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể) đứng bên đường nên T đi đến và nói chuyện. Quá trình nói chuyện, bị cáo T biết người này cũng nghiện ma túy và có bán ma túy nên hỏi "Anh còn không? để cho em một triệu", ý của T là hỏi mua 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) ma túy đá, thì người này nói "Đưa tiền đây". Nghe vậy bị cáo Lê Văn T liền lấy trong người ra 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) đưa cho người đàn ông, người này cầm tiền rồi đưa lại cho T 01 (Một) gói nhỏ được gói bên ngoài là một lớp nilon màu trắng, mở ra bên trong có chứa chất tinh thể dạng rắn màu trắng. bị cáo Lê Văn T quan sát thấy đúng là chất ma túy dạng đá cần mua nên giấu trong lòng bàn tay trái của mình rồi đi ngược về bến xe khách huyện Tân Kỳ để đón xe về nhà, còn người đàn ông đi đ u thì T không rõ Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi Lê Văn T đang đi bộ trên đường Quốc lộ 15B thuộc địa bàn khối 2, thị trấn Tân Kỳ, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An thì gặp tổ công tác Công an huyện Tân Kỳ yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, nhận thức được hành vi cất giấu gói ma túy của mình là vi phạm pháp luật nên Lê Văn T đã tự nguyện đưa từ trong lòng bàn tay trái ra 01 (Một) gói nhỏ giao nộp cho lực lượng Công an và khai nhận đó là ma túy đá T vừa mới mua về nhằm mục đích sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Văn T, niêm phong gói ma túy nói trên rồi áp giải Lê Văn T về trụ sở làm việc.

Tại bản kết luận giám định số 770/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 27/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng thu giữ của Lê Văn T gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số chất tinh thể rắn màu trắng thu giữ của Lê Văn T có khối lượng là 0,94g (Không phẩy chín mươi bốn gam) Tại bản Cáo trạng số: 44/CT-VKS-TK ngày 14 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ đã truy tố bị cáo Lê Văn T về tội: “ àng trữ trái ph p chất ma túytheo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

a. Về trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS, xử phạt Lê Văn T mức án từ 12 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày: 22/5/2021. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

b. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu, tiêu hủy: 0,775g (Không phẩy bảy trăm bảy mươi lăm gam) còn lại là tang vật vụ án, được bảo quản tại Kho vật chứng cơ quan Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Kỳ, có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Tân Kỳ và Chi cục THADS huyện Tân Kỳ.

c. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BL HS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lê Văn T phải chịu 200 000 đồng tiền án phí HSST.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Văn T có lời nói sau cùng: Bị cáo bị truy tố và xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội. Bị cáo thật sự rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo sớm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: rong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Kỳ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] rong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Lê Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, đúng như nội dung của bản cáo trạng đã nêu và quy kết, không có khai nại gì khác. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, được lập vào ngày 22/5/2021, phù hợp với vật chứng, lời khai của người chứng kiến, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án Như vậy, đã đầy đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 22/5/2021, trên đường Quốc lộ 15B thuộc địa bàn khối 2, thị trấn Tân Kỳ, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, tổ công tác Công an huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An phát hiện và bắt quả Lê Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,94g (Không phẩy chín mươi bốn gam) ma túy Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng.

Tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 5 năm;

a) … c) Heroine, …Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Như vậy: Hành vi tàng trữ 0,94g (Không phẩy chín mươi bốn gam) ma túy (Methamphetamin) nhằm mục đích sử dụng của Lê Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Kỳ truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã x m phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý đối với các loại chất ma túy. Tệ nạn sử dụng trái phép chất ma túy trong thời gian gần đ y có xu hướng gia tăng, không những gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an trong xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân mà còn trực tiếp làm suy kiệt giống nòi, gây ra hiểm họa HIV-AIDS và là tác nhân của nhiều loại tệ nạn, tội phạm khác. Bị cáo Lê Văn T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ ma túy của mình là trái pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện tội phạm, vì vậy cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung là thật sự cần thiết.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Văn T không có tình tiết tăng nặng Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đ y là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; bị cáo được Chính ủy rung đoàn 19 tặng danh hiệu Chiến sĩ tiên tiến vì đã hoàn thành nhiệm vụ phong trào thi đua quyết thắng năm 2013 đ y là tình tiết giảm nhẹ quy định khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 BLHS quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng,… tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” uy nhiên, qua xác minh tại chính quyền địa phương bị cáo là người lao động tự do thu nhập thấp không ổn định, bị cáo đang sống chung với bố mẹ không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Lê Văn T, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Kỳ đã tiến hành điều tra, xác minh theo lời khai của bị cáo nhưng chưa có kết quả, Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Kỳ sẽ tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[7] Về vật chứng vụ án, gồm: 01 ( ột) phong bì thư đựng vỏ bao bì và số chất tinh thể màu trắng còn lại 0,775g (Không phẩy bảy trăm bảy mươi lăm gam) sau khi đã lấy mẫu gửi giám định thu giữ của Lê Văn T. Xét thấy: Đây là chất Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ, sử dụng, nên áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BL HS để tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Lê Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 1- Tuyên bố b cáo: Lê Văn T phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2- Về điều luật áp dụng:

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Lê Văn T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 22/5/2021. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3- Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, tiêu hủy: 0,775g (Không phẩy bảy trăm bảy mươi lăm gam) ma túy (Methamphetamin) còn lại sau giám định và vỏ bao bì niêm phong trong phong bì thư, có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 15/6/2021 giữa Cơ quan CSĐ Công an huyện Tân Kỳ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Kỳ.

4- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BL HS năm 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Văn T phải chịu 200 000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5- Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều Điều 331 L HS năm 2015, bị cáo Lê Văn T có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2021/HS-ST

Số hiệu:38/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Kỳ - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;