Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 37/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SL

BN ÁN 37/2022/HS-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh SL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

LVV, sinh ngày 08/7/1987, tại PMPK, QN, SL; Nơi ĐKHKTT: Bản QT, xã BM, huyện TC, tỉnh SL; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông LVO, sinh năm 1960 và con bà HTO, sinh năm 1961; có vợ là HTH, sinh năm 1988, có 02 con, lớn nhất sinh năm 2006 nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự, nhân thân: không có; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/10/2021; Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Cầm Trọng Thủy, Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm Trợ giúp viên pháp lý nhà nước, tỉnh SL. Có mặt.

- Người bị hại:

Chị PTTL, sinh năm 1993, địa chỉ: Khu tập thể 110 điện lực, TK5, thị trấn IO, huyện ML, tỉnh SL. Có đề nghị xử vắng mặt;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông TVH, sinh năm 1976, địa chỉ: TK2, xã MB, huyện ML, tỉnh SL. Có đề nghị xử vắng mặt.

Anh LVK, sinh năm 2003, địa chỉ: Bản QT, xã BM, huyện TC, tỉnh SL.

Có đề nghị xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo LVV bị Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 18/10/2021, tại bản BD, xã MB, huyện ML, tỉnh SL, Công an phát hiện và bắt quả tang LVV, sinh ngày 08/7/1987, ở bản QT, xã BM, huyện TC, tỉnh SL đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm:

01 gói nhỏ được gói bằng nilon màu hồng bên trong có chứa cục bột màu trắng, do LVV tự giác lấy từ trong túi quần bên trái đang mặc tự giác giao nộp khai là Heroine để sử dụng;

Số tiền 1.050.000, đồng;

01 chiếc xe máy nhãn hiệu ESPERO DETECH, sơn màu nâu, BKS 26AA-091.10, xe cũ qua sử dụng.

Ngày 19/10/2021 cơ quan Công an đã thành lập hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định, kết quả:

01 gói nhỏ được gói bằng nilon màu hồng bên trong có chứa cục bột màu trắng, do LVV tự giác lấy từ trong túi quần bên trái đang mặc tự giác giao nộp khai là Heroine có khối lượng 0,30 gam, lấy 0,30 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu V.

Cơ quan Công an huyện ML ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Ti Kết luận giám định số: 1680/KLGĐ ngày 20/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh SL, kết luận:

Mẫu ký hiệu V là ma túy, loại Heroine, khối lượng giám định 0,30 gam. Khối lượng ma túy thu giữ là 0,30 gam Heroine.

Quá trình điều tra Công an tiếp nhận đơn trình báo của người bị hại chị PTTL, sinh năm 1993, địa chỉ: Khu tập thể 110 điện lực, tiểu khu 5, thị trấn IO, huyện ML, tỉnh SL. Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 18/10/2021 đang đứng chờ xe buýt ở khu vực gần bến xe khách huyện ML, bị một thanh niên đi xe máy mang BKS 26AA-091.10 cướp giật lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 12 PROMAX, màu vàng đồng, đã qua sử dụng.

Bị cáo LVV khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 17/10/2021 LVV sang nhà của cháu LVK, sinh năm 2003, địa chỉ: Bản QT, xã BM, huyện TC, tỉnh SL (cháu ruột) mượn chiếc xe máy mang BKS 26AA-091.10 để đi sang huyện ML tìm việc làm thuê. Đến khoảng 13 giờ ngày 18/10/2021, do không có việc làm đang đi về nhà hướng từ thị trấn IO ra MB. Khi đi qua khu vực gần cổng bến xe nhìn thấy một phụ nữ đứng bên lề đường chờ xe buýt, tay cầm chiếc điện thoại di động. LVV nảy sinh ý định chiếm đoạt đã quay xe lại, áp sát dùng tay trái giật lấy chiếc điện thoại và điều khiển xe đi vào hướng trung tâm thị trấn IO, huyện ML qua vòng xuyến thuộc tiểu 5, thị trấn IO, huyện ML đi ra hướng MB, đến ngã 3 MB đi MC vào nhà ông TVH, sinh năm 1976, địa chỉ: TK2, xã MB, huyện ML, tỉnh SL. Đặt cọc chiếc điện thoại vừa cướp giật được, vay của ông TVH 2.000.000, đồng, khi đặt cọc không nói là chiếc điện thoại vừa cướp giật được. Sau khi có tiền LVV đi đến nhà một người tên Hơn ở xã MB, huyện ML mua 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu hồng hết 300.000, đồng. LVV cất gói Heroine trong túi quần bên trái đang mặc đi về, đến khu vực bản BD, xã MB, huyện ML thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Số tiền cắm điện thoại có được LVV đã chi tiêu cá nhân hết 650.000, đồng và mua ma túy hết 300.000, đồng còn lại 1.050.000, đồng bị thu giữ.

Vật chứng thu giữ do ông TVH nộp gồm:

01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 12 PROMAX, màu vàng đồng, đã qua sử dụng.

Ngày 26/10/2021 Hội đồng định giá 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 12 PROMAX, màu vàng đồng, đã qua sử dụng có giá trị là 22.000.000, đồng (hai mươi hai triệu đồng).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo LVV không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định ma túy và kết luận định giá tài sản nêu trên.

Về nguồn gốc ma túy LVV khai mua của một người tên là Hơn, với số tiền 300.000, đồng. Công an điều tra xác minh người tên Hơn không có mặt ở địa phương, không có căn cứ điều tra về người bán ma túy, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của LVV.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo LVV đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và tội “Cướp giật tài sản”.

Bản cáo trạng số: 11/CT-VKS-ML ngày 27 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố bị cáo LVV về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo LVV phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt LVV từ 18 đến 24 tháng tù;

Tuyên bố bị cáo LVV phạm tội“Cướp giật tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt LVV từ 24 đến 30 tháng tù;

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt hai tội. Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo do không có tài sản.

Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các Điều 584, 585, 589 của Bộ luật dân sự.

Tch thu tiêu huỷ:

01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 mảnh nilon màu hồng. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.050.000, đồng. Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại cho người bị hại:

Chị PTTL 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 12 PROMAX, màu vàng đồng, đã qua sử dụng;

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh LVK chiếc xe máy mang BKS 26AA-091.10.

Buộc bị cáo phải bồi thường cho:

Ông TVH số tiền 2.000.000, đồng.

Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Tòa án.

Miễn án phí hình sự, dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên Quyết định truy tố. Bị cáo, người bào chữa, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Ni bào chữa cho bị cáo phát biểu ý kiến bào chữa đưa ra các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tố tụng: Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều có đề nghị xử vắng mặt, sự vắng mặt không ảnh hưởng đến giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt họ vẫn đảm bảo quyền lợi của họ.

[3]. Bị cáo LVV thừa nhận: Hồi 15 giờ 30 phút ngày 18/10/2021, tại bản BD, xã MB, huyện ML, tỉnh SL đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,30 gam, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

LVV thừa nhận khoảng 13 giờ trưa ngày 18/10/2021 LVV đã thực hiện hành vi đi xe máy, dùng tay giật và chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 12 PROMAX, màu vàng đồng, đã qua sử dụng có giá trị là 22.000.000, đồng của chị PTTL.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Thông báo kết quả giám định, biên bản khám nghiệm hiện trường, Kết quả định giá tài sản, các lời khai của người bị hại, người liên quan.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: LVV đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

LVV đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản nên không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

Hi đồng xét xử xét thấy: Tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của công dân, do đó bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân không tốt là đối tượng liên quan đến hoạt động ma túy. Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Bị cáo thật thà khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4]. Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các Điều 584, 585, 589 của Bộ luật dân sự.

Vật chứng vụ án:

Tch thu tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 mảnh nilon màu hồng; Vỏ phong bì cũ gửi giám định.

Đi với số tiền thu giữ là 1.050.000, đồng, được xác định đây là số tiền do LVV có được khi cầm đồ chiếc điện thoại là 2.000.000, đồng đã chi tiêu hết 950.000, đồng. Khi cho cầm, vay tiền ông TVH không biết là tài sản do phạm tội mà có. Cần trả cho ông TVH số tiền 1.050.000, đồng đang thu giữ.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại cho người bị hại:

Chị PTTL 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 12 PROMAX, màu vàng đồng, đã qua sử dụng và không yêu cầu bồi thường thêm;

Cơ quan điều tra đã trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh LVK chiếc xe máy mang BKS 26AA-091.10 và không yêu cầu bồi thường thêm. Được xác định khi cho mượn xe máy anh LVK không biết việc LVV sử dụng vào việc phạm tội, cần chấp nhận.

Trách nhiệm bồi thường:

Buộc bị cáo phải bồi thường cho ông TVH số tiền 950.000, đồng.

Về nguồn gốc ma túy LVV khai mua của một người tên là Hơn, với số tiền 300.000, đồng. Công an điều tra xác minh người tên Hơn không có mặt ở địa phương, không có căn cứ điều tra về người bán ma túy, không có chứng cứ nào khác để xác định lời khai của LVV, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về số ma túy.

Bị cáo không có đơn đề nghị và tài liệu miễn án phí, do đó phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo LVV phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Xử phạt bị cáo LVV 22 (hai mươi hai) tháng tù.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo LVV phạm tội: “Cướp giật tài sản”. Xử phạt bị cáo LVV 30 (ba mươi) tháng tù.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt hai tội. Buộc LVV phải chấp hành hình phạt chung là 52 (năm mươi hai) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 19/10/2021.

Không phạt Bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

3. Vật chứng vụ án và trách nhiệm bồi thường: Căn cứ điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các Điều 584, 585, 589 của Bộ luật dân sự.

Vật chứng vụ án:

Tch thu tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 01 mảnh nilon màu hồng; Vỏ phong bì cũ gửi giám định;

Trả cho ông TVH số tiền 1.050.000, đồng (một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng). (được niêm phong theo biên bản mở niêm phong cân tịnh vật chứng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 19/10/2021 và theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định ngày 10/01/2022). Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/02/2022 cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh SL.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại cho người bị hại:

Chị PTTL 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 12 PROMAX, màu vàng đồng, đã qua sử dụng và không yêu cầu bồi thường thêm;

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra đã trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh LVK chiếc xe máy mang BKS 26AA-091.10 và không yêu cầu bồi thường thêm.

Trách nhiệm bồi thường:

Buộc bị cáo phải bồi thường trả cho ông TVH số tiền 950.000, đồng (chín trăm năm mươi nghìn đồng).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo LVV phải chịu án 200.000, đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000, đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm..

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 23/02/2022.

Ni bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 37/2022/HS-ST

Số hiệu:37/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;