TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 36/2024/HS-ST NGÀY 22/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 3 năm 2024, Toà án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến tại 02 điểm cầu: Điểm cầu trung tâm tại phòng xét xử Toà án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn gồm: Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án và điểm cầu thành phần tại Nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn gồm có: Bị cáo, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, Cán bộ chiến sỹ thuộc cơ sở giam giữ đối với vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 11/2024/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:
Lộc Văn C (tên gọi khác: Không), sinh ngày 10 tháng 10 năm 1988 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn C, xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lộc Văn P (đã chết năm 2022) và bà Dùng Thị C1; vợ là Vũ Thị H và 03 con (lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2022); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:
- Bản án số 149/2013/HSST, ngày 26/9/2013 của Toà án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt Lộc Văn C 03 (ba) năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma tuý và 02 (hai) năm tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Tổng hợp hình phạt bị cáo Lộc Văn C phải chịu là 05 (năm) năm tù giam (đã được xoá án tích);
- Quyết định số 580/QĐ-UBND, ngày 05/7/2021 của Ủy ban nhân dân xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã đối với Lộc Văn C trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày 05/7/2021 đến ngày 05/10/2021, Lộc Văn C đã chấp hành xong (đã được xoá tiền sự).
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/11/2023, tạm giam từ ngày 29/11/2023 tại Nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn đến nay; có mặt.
Người chứng kiến: Anh Vũ Văn H1, sinh năm 1983, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 00 ngày 24/11/2023, tổ công tác Công an huyện C phối hợp với Đồn Biên phòng Ba Sơn huyện C, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại thôn Bản Vàng, xã C, huyện C, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang 01 xe ô tô Biển kiểm soát 29A-187.xx dừng đỗ cạnh đường có biểu hiện nghi vấn hoạt động tội phạm. Tiến hành kiểm tra, phát hiện trên xe có 02 người gồm: Lộc Văn C, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn C, xã C và Vũ Văn H1, sinh năm 1983; đăng ký hộ khẩu tại: Thôn C, xã X, huyện H, tỉnh Bắc Giang. Lộc Văn C ngồi ở ghế lái, Vũ Văn H1 ngồi ở ghế phụ. Kiểm tra xe phát hiện tại hộc cửa xe bên ghế lái có 01 gói giấy nhỏ màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa các cục bột màu trắng. Lộc Văn C khai nhận đó là ma tuý Hê rô in mua về sử dụng.
Tại bản kết luận giám định số 45/KL-KTHS, ngày 29/11/2023 của Phòng K Công an tỉnh kết luận: Các cục chất bột màu trắng gửi giám định đều là ma tuý Hêrôin, có tổng khối lượng 0,456 gam (đã trừ bì).
Tại Cơ quan điều tra, Lộc Văn C khai nhận: Bản thân nghiện chất ma túy Heroin từ năm 2013 đến nay. Khi có nhu cầu sử dụng ma túy, Lộc Văn C thường ra khu vực chợ Đ, thành phố L mua ma tuý của những người nghiện (không biết họ tên, địa chỉ). Lộc Văn C lái xe tải thuê cho anh Vũ Văn H1 (anh trai bên vợ). Khoảng 08 giờ ngày 24/11/2023, Lộc Văn C một mình bắt xe ôm từ chợ G lên khu vực N, thành phố L gặp một người đàn ông không biết họ tên, địa chỉ và mua một gói Hê rô in với giá 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) để sử dụng. Sau khi mua được ma tuý, Lộc Văn C cho vào túi quần về khu vực chợ G uống nước với anh Vũ Văn H1. Đến 10 giờ cùng ngày do không có khách thuê xe nên Lộc Văn C rủ anh Vũ Văn H1 vào xã C xem ai có hàng nông sản thì chở thuê. Lộc Văn C lái xe, anh H1 ngồi ở ghế phụ. Trên đường đi Lộc Văn C đã để gói ma tuý vừa mua được vào hộc cửa bên trái ghế lái. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày thì bị bắt quả tang như đã nêu trên.
Tại Bản cáo trạng số 23/CT-VKS ngày 27/02/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Lộc Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận diễn biến hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo biết đó là hành vi vi phạm pháp luật nhưng do nghiện ma tuý và ham chơi nên bị cáo phạm tội.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lộc Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Lộc Văn C từ 24 (hai mươi tư) tháng đến 30 (ba mươi) tháng tù giam. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng để đảm bảo thi hành án.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì có ghi chữ "Quả tang Lộc Văn C", có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình C2, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng K tại phần giáp lai mới. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 0,402 gam Heroin (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và vỏ bao gói (cũ).
Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Lộc Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.
Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận. Khi nói lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo phù hợp với các chứng cứ khác và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.
[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa người chứng kiến anh Vũ Văn H1 vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của người chứng kiến không ảnh hưởng đến việc xét xử vì trong hồ sơ đã có đầy đủ lời khai của họ. Do đó, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt người chứng kiến theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Tại phiên tòa bị cáo Lộc Văn C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lộc Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,456 gam chất ma túy Heroine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo Lộc Văn C đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố đối với bị cáo Lộc Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước.
Nhà nước Việt Nam đã nghiêm cấm việc tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã trưởng thành, có đủ năng lực hành vi và nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do nghiện ma túy và ham chơi nên bị cáo đã phạm tội. Hành vi của bị cáo gây hoang mang lo lắng cho quần chúng nhân dân, làm mất trật tự trị an trên địa bàn. Để có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử đánh giá về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo như sau:
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[7] Về nhân thân: Bị cáo đã bị Toà án xét xử về tội phạm liên quan đến ma tuý; bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã. Mặc dù đã được xoá án tích, xoá tiền sự nhưng xác định bị cáo là người có nhân thân xấu.
[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, có như vậy mới đảm bảo tính nghiêm minh, răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa chung tội phạm cho xã hội.
[9] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh ngày 21/12/2023 thể hiện: Bị cáo không có tài sản gì có giá trị do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[10] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì có ghi chữ "Quả tang Lộc Văn C ", có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình C2, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng K tại phần giáp lai mới. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 0,402 gam Heroin (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và vỏ bao gói (cũ).
[11] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Lộc Văn C, tại cơ quan điều tra Lộc Văn C khai không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, cơ quan điều tra không làm rõ được; anh Vũ Văn H1 không biết việc bị cáo cất giấu ma tuý trên xe ô tô. Do đó, Hội đồng xét xử không có đủ căn cứ để xử lý trong vụ án này.
[12] Về án phí: Bị cáo Lộc Văn C bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
[14] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lộc Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Hình phạt:
- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Lộc Văn C 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ tạm giữ ngày 25/11/2023.
- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lộc Văn C. 3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì có ghi chữ "Quả tang Lộc Văn C ", có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình C2, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng K tại phần giáp lai mới. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng 0,402 gam Heroin (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và vỏ bao gói (cũ).
(Cụ thể, chi tiết vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng sơn, theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/02/2024).
4. Về án phí: Bị cáo Lộc Văn C phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 36/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 36/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về