Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 5 năm 2020 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

1. Đặng Ngọc T (Q), sinh năm: 1987, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: đường K, phường T, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh;Chổ ở: đường L, Phường 14, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: giao hang online; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Ngọc Q và bà Phạm Thị Ngọc T; Có vợ Trần Thị Lê K, sinh năm 1994 và 01 con sinh năm 2014; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: ngày 24/9/2007 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 03 năm tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” (bản án số 253/2007/HSST).bị bắt tam giam ngày: 04/6/2019; (Có mặt).

2. La Quốc T1 (B), sinh năm: 1994, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: đường V, phường P, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: đường L, Phường 14, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh;nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông La Q và bà Nguyễn Thị H; Chưa có vợ; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tạm giam ngày: 04/6/2018; (Có mặt).

3. Phạm Thị Như U, sinh năm: 1996, tại: Bình Thuận; hộ khẩu thường trú: thôn C, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận;Chổ ở; đường B, phường H, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: nhân viên Maketing; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đình K và bà Nguyễn Thị P; Chưa có chồng; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tam giam ngày: 04/6/2019; (Có mặt).

4. Nguyễn Ngọc Thanh H, sinh năm: 2000, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: không; Chổ ở: đường S, xã N, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Bán mỹ phẩm; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hoàng V và bà Trần Thị H; Chưa có chồng; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tam giam ngày : 04/6/2019; (Có mặt).

5. Hoàng Thế A, sinh năm: 1988, tại: Hà Tây (Hà Nội); hộ khẩu thường trú: đường Đ, Phường R, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; chỗ ở: đường L, Phường I, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Nhân viên tạp vụ; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng B và bà Lê Thị H; Chưa có vợ; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tam giam ngày: 04/6/2019; (Có mặt).

6. Bùi Đức T2, sinh năm: 1981, tại: Nam Định; hộ khẩu thường trú: đường P, Phường 14, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh;Chổ ở: đường L, Phường 14, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Mạnh T và bà Phạm Thị Ngọc L; Chưa có vợ; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tam giam ngày: 04/6/2019; (Có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Lê Thị Hồng N, sinh năm 1997; địa chỉ: ấp R, xã N, huyện T, tỉnh Trà Vinh; (Vắng mặt).

2. Bà Phạm Thị Ngọc L, sinh năm 1960; trú tại: đường B, phường H, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 16h30 phút ngày 04/06/2019, Tổ công tác- Đội CSĐTTP về ma túy- Công an quận Gò Vấp bắt quả tang Đặng Ngọc T có hành vi cất giấu ma túy trong túi quần phía trước bên phải mà T đang mặc nhằm mục đích bán lại cho người khác để thu lợi tại trước nhà số 61/11B Phạm Văn Chiêu, Phường 14, quận Gò Vấp. Cơ quan điều tra tiến hành thực hiện Lệnh khám xét khẩn cấp tại chỗ ở của T tại phòng trọ số 6 đường L, phường 14, quận Gò Vấp phát hiện La Quốc T1, Phạm Thị Như U, Nguyễn Ngọc Thanh H và Hoàng Thế A có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Gò Vấp, Đặng Ngọc T, Hoàng Thế A, La Quốc T1, Phạm Thị Như U, Nguyễn Ngọc Thanh H khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng tháng 5/2019, Đặng Ngọc T thuê phòng trọ số 6 đường L, phường 14, quận Gò Vấp ở chung với La Quốc T1. Trưa ngày 31/5/2019, Đặng Ngọc T một mình điều khiển xe máy biển số 84G1-X đi đến nhà của T3 (chưa rõ lai lịch) trong một con hẻm trên đường Quang Trung, quận Gò Vấp mua 8.000.000 đồng ma túy tổng hợp (hàng đá) nhằm mục đích sử dụng và bán lại cho người khác để thu lợi bất chính. Sau khi mua ma túy xong, T cất giấu gói ma túy vào trong túi quần bên phải rồi điều khiển xe máy quay về phòng trọ. Tại phòng trọ, T lấy gói ma túy đang cất giấu trong tủ quần áo đổ ra sử dụng 02 lần, số ma túy còn lại T chia thành 02 gói nhỏ cất giấu vào tủ quần áo. Sau đó, Nguyễn Ngọc Thanh H là bạn gái của T1 cũng đến ở chung phòng trọ với T và T1. Trưa ngày 04/6/2019, T lấy 01 gói ma túy đang cất giấu trong tủ quần áo ra đổ một phần vào gói nylon nhỏ rồi đưa cho T1 đem bán cho người nam thanh niên (chưa rõ lai lịch) ở khu vực cầu vượt Quang Trung, quận 12 với giá tiền: 500.000 đồng. T cho T1 01 gói nylon nhỏ chứa ma túy để trả công thì T1 cất giấu gói ma túy này vào dây thắt lưng quần phía trước để bán lại kiếm lời khi có con nghiện hỏi mua. Khoảng 16 giờ ngày 04/6/2019, T lấy cái hộp giấy bên trong có 02 gói nylon chứa ma túy ra để trên bàn trong phòng trọ và lấy 01 gói ma túy đổ một phần vào gói nylon nhỏ rồi đưa cho T1 đem đi bán cho một nam thanh niên (chưa rõ lai lịch) ở đường Dương Quảng Hàm, quận Gò Vấp. Tuấn nhận gói ma túy của do T đưa, cất giấu vào túi quần trước bên phải đang mặc rồi chạy xe đi bán ma túy. T lấy một ít ma túy bỏ vào gói nylon nhỏ cất giấu vào túi quần trước bên phải của T đang mặc rồi lấy xe máy biển số 84G1- X chạy đi khỏi phòng trọ. Còn 02 gói ma túy T để trên bàn trong phòng trọ. Lúc này, H đang có mặt trong phòng trọ nên đã nhìn thấy toàn bộ việc T chia nhỏ ma túy ra các gói nylon và cất giấu gói ma túy trong cái hộp giấy đang để trên bàn. Khi T đi đến trước số: 61/11B Phạm Văn Chiêu, phường 14, quận Gò Vấp thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang như trên. Bản thân T1 sau khi nhận ma túy do T đưa thì đi đến Dương Quảng Hàm để giao ma túy nhưng chưa giao được nên quay về phòng trọ thì ngay lúc Công an đưa T về phòng trọ tiến hành khám xét khẩn cấp và bắt giữ T1 đang cất giấu ma túy trong túi quần và thắt lưng quần nên thu giữ vật chứng và lập biên bản phạm tội quả tang.

Trước đó khi T vừa chạy xe đi ra ngoài thì Phạm Thị Như U đi bộ vào phòng trọ số 6 gặp H. H lấy 01 gói ma túy trong cái hộp giấy trên bàn ra đổ một ít vào bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh đang để dưới sàn nhà rồi H và U cùng sử dụng số ma túy trong nỏ. Sau đó, Hoàng Thế A đến phòng trọ số 6 tìm T để mua ma túy nhưng chỉ thấy H và U. Thế A sử dụng ma túy có sẵn trong nỏ cùng với H và U. Một lúc sau, Thế A hỏi ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá tiền: 500.000 đồng, U hỏi ý kiến H đồng ý bán rồi U trực tiếp lấy 01 gói ma túy trong cái hộp giấy trên bàn đổ một ít vào gói nylon nhỏ bán cho Thế A. Thế A nhận gói ma túy do U bán rồi bỏ vào trong bóp da để ở túi quần sau bên trái đang mặc và bỏ 500.000 đồng trên nền nhà. Khi T1 vừa chạy xe máy về đến trước cửa phòng trọ số 6, còn H, U, Thế A đang ở trong phòng thì Công an dẫn giải T đến phòng trọ để tiến hành khám xét. Lúc này, H và U mỗi người cầm 01 gói ma túy trong hộp giấy trên bàn chạy vào phòng vệ sinh ném vào trong bồn cầu nhưng chưa kịp xả nước phi tang thì bị Công an phát hiện, thu giữ toàn bộ vật chứng và lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, T khai nhận đã bán ma túy được khoảng 1 tháng thì bị bắt thu lợi được số tiền 10.000.000 đồng, T khai nhận có bán ma túy cho Hoàng Thế A 01 lần và bán ma túy cho Bùi Đức T2 4 lần, La Quốc T1 thừa nhận là người trực tiếp giao ma túy cho T bán cho các con nghiện mỗi lần đi giao ma túy cho T được trả công 50.000 đồng và cho ma túy sử dụng, T1 bán ma túy cho T thu lợi bất chính được 3.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính T đã tiêu xài hết. Còn Phạm Thị Như U, Nguyễn Ngọc Thanh H mới thực hiện hành vi bán ma túy cho Hoàng Thế A lần đầu và khi Công an kiểm tra U và H mỗi người ném 01 gói ma túy vào bồn cầu để phi tang nhưng bị phát hiện. Hoàng Thế A khai nhận lần đầu mua ma túy của U. Ngoài ra Hoàng Thế A còn khai nhận đã mua ma túy của T 01 lần vào khoảng cuối tháng 4/2019 với giá 200.000 đồng do La Quốc T1 mang đến giao. Đồng thời, Lúc 19h ngày 04/06/2019, Tổ công tác kết hợp với Công an phường 14, quận Gò Vấp kiểm tra nhà số đường L, phường 14, quận Gò Vấp phát hiện Bùi Đức T2 đang tàng trữ trái phép chất ma túy nên lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Đức T2 khai nhận: Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 03/6/2019 T2 từ phòng nhà đường L, Phường 14, Quận Gò Vấp đi qua phòng trọ số 6 gặp Đặng Ngọc T hỏi mua ma túy tổng hợp (hàng đá) với số tiền 300.000 đồng để sử dụng cho bản thân thì T đồng ý bán. Lúc này T2 đưa số tiền 300.000 đồng cho T và nhận một gói nylon chứa ma túy tổng hợp (hàng đá) và hai viên thuốc lắc (do T cho thêm T2 để sử dụng) trực tiếp từ T đưa. Sau khi mua ma túy xong T2 cất giấu gói nylon chứa ma túy tổng hợp và hai viên thuốc lắc vào túi quần bên phải rồi chạy xe gắn máy đến khu vực Sóng Thần thuộc tỉnh Bình Dương thuê khách sạn (không rõ biển hiệu) cùng với bạn gái mới quen (không rõ lai lịch họ tên) cùng sử dụng một ít ma túy tổng hợp (hàng đá) mua của T. Số ma túy đá còn lại và hai viên thuốc lắc T2 cất giấu trong túi quần bên phải rồi cùng bạn gái ngủ cho đến 13 giờ 00 phút ngày 04/6/2019 thì T2 về đến nhà đường L, Phường 14, Quận Gò Vấp, rồi T2 lên gác lửng lấy gói nylon chứa ma túy tổng hợp (hàng đá) trong túi quần ra bỏ vào trong hộp giấy không có đậy nắp để trên bàn, còn hai viên thuốc lắc Thọ lấy từ trong túi quần ra cất giấu vào trong thùng giấy có ghi chữ Electrolux rồi T2 đi ngủ. Đến 18 giờ 00 phút cùng ngày Công an Quận Gò Vấp kiểm tra phát hiện trên gác lửng có một gói nylon chứa ma túy tổng hợp (hàng đá) trong hộp giấy không có đậy nắp để trên bàn và hai viên thuốc lắc T2 cất giấu vào trong thùng giấy có ghi chữ Electrolux; 07 (bảy) nỏ thủy tinh trên bàn; 01(một) cân tiểu ly trong tủ để chén dưới tầng trệt nên thu giữ và bắt giữ Bùi Đức T2, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang như đã nêu trên. Ngoài ra T2 còn khai nhận trước đó đã mua ma túy của T được 3 lần do T trực tiếp giao mỗi lần mua 300.000 đồng.

Vật chứng thu giữ:

- 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Đặng Ngọc T và hình dấu Công an Phường 14, quận Gò Vấp (thu giữ trong túi quần phía trước bên phải Đặng Ngọc T đang mặc). Tại bản kết luận giám định 1237/KLGĐ-H ngày 14/06/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5950 g, loại Methamphetamine.

- 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên La Quốc T1 và hình dấu Công an Phường 14, quận Gò Vấp (ký hiệu mẫu m1, thu giữ trong túi quần trước bên phải của La Quốc T1).

- 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên La Quốc T1 và hình dấu Công an Phường 14, quận Gò Vấp (ký hiệu mẫu m2, thu giữ ở dây thắt lưng quần phía trước của La Quốc T1).

- 02 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Đặng Ngọc T, Phạm Thị Như U, Nguyễn Ngọc Thanh H và hình dấu Công an Phường 14, quận Gò Vấp (ký hiệu mẫu m3, thu giữ ở thành bên trong bồn cầu trong nhà vệ sinh phòng trọ số 6 của T).

- 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Hoàng Thế A và hình dấu Công an Phường 14, quận Gò Vấp (ký hiệu mẫu m4, thu giữ trong bóp da để ở túi quần sau bên trái của Hoàng Thế A).

Tại bản kết luận giám định 1238/KLGĐ-H ngày 14/06/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận:

+Gói 1: Tinh thể không màu ký hiệu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,5505 g, loại Methamphetamine.

+Gói 2: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,9322g, loại Methamphetamine.

+ Gói 3: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m3 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 10,1366 g, loại Methamphetamine.

+Gói 4: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m4 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,5549 g, loại Methamphetamine.

- 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu đã được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Bùi Đức T2 và hình dấu Công an Phường 14, quận Gò Vấp.(ký hiệu m1).

- 01 gói niêm phong bên trong có 01 viên hình bông mai màu vàng (m2) và 01 viên thuốc nén màu xám (m3), bên ngoài có chữ ký ghi tên Bùi Đức T2 và hình dấu Công an Phường 14, quận Gò Vấp. Tại bản kết luận giám định 1236/KLGĐ-H ngày 14/06/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận:

+ Gói 1: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3013 g, loại Methamphetamine.

+ Gói 2: 01 viên nén hình tròn màu xám được ký hiệu mẫu m2 cần giám định, có khối lượng 0,2616 g, không tìm thấy ma túy. 01 viên nén hình bông mai màu vàng được ký hiệu mẫu m3 cần giám định có khối lượng cần giám định có khối lượng 0,2631 g, không tìm thấy ma túy. (BL: 51).

- Thu giữ trong phòng trọ số 6: 01 cân tiểu ly màu trắng trên bàn; 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút ở trên tủ quần áo.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số sim: 090X5951 (thu giữ của T);

- 01 xe máy biển số 84G1-X, số khung: RLCUG0610HY594613, số máy: G3D4E619744 (thu giữ của T). Qua xác minh chiếc xe trên do chị Lê Thị Hồng N, sinh năm 1997, nơi cư trú: tỉnh Trà Vinh. Chị N khai chị bị mất trộm chiếc xe máy biển số 84G1-X và giấy tờ xe để trong cốp xe trên vào ngày 09/04/2019 trước phòng thuê huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Đặng Ngọc T khai nhận đã cầm chiếc xe trên của 01 thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 20.000.000 đồng được khoảng 1 tháng do thấy xe có giấy tờ đầy đủ nên không biết là xe bị mất trộm. Do người thanh niên không quay lại chuộc xe nên T sử dụng xe làm phương tiện đi mua, bán ma túy. Cơ quan điều tra đã có công văn gửi Công an huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh để tiếp nhận xe máy biển số 84G1-X, số khung: RLCUG0610HY594613, số máy: G3D4E619744 để xử lý theo thẩm quyền điều tra.

- 01 xe máy biển số 72C2-X, số khung: RLHJF6323HZ-101978, số máy: JF63E-2122328 (thu giữ của Hoàng Thế A). Qua xác minh chiếc xe trên do Hoàng Thế A đứng tên sở hữu, Hoàng Thế A sử dụng xe đi mua ma túy.

- 01 điện thoại hiệu Oppo màu đỏ có số sim: 09664X36 và 01 điện thoại di động hiệu Vsmart màu đen có số sim: 090X1147. (thu giữ của Hoàng Thế A).

- Số tiền 540.000 đồng.(thu giữ trên nền nhà trong phòng trọ của T);

- 01 điện thoại di động hiệu Asus, màu trắng đã hư và 01 điện thoại di động hiệu Samsung có sim số 9755X71 (thu giữ của T2);

- 07 nỏ thủy tinh; 01 bình gas hiệu Bluesky (thu giữ của T2);

- 01 xe máy biển số 52T2-X; số khung: 28EY-041860, số máy: JA32E- 0041954 (thu giữ của T2). Qua xác minh chiếc xe có số khung: 28EY-041860, số máy: JA32E-0041954 là xe có biển số 59D1-X do bà Phạm Thị Ngọc L (mẹ ruột của T2) đứng tên chủ sở hữu. Tháng 3/2019, chị L cho Thọ mượn chiếc xe máy trên để đi làm, chị L không biết T2 sử dụng ma túy, chị có đơn xin nhận lại chiếc xe. Tại Cơ quan điều tra, Bùi Đức T2 khai chiếc xe trên T2 mượn của mẹ để đi lại, do biển số xe bị rớt lúc nào T2 không biết nên mượn biển số xe 52T1-X của T gắn vào để đi lại. Đặng Ngọc T khai nhận biển số 52T1-X T nhặt được nên khi T2 nói bị rớt biển số hỏi mượn thì T đưa cho T2.

Đối với người thanh niên tên T3 bán ma túy cho T (không rõ lai lịch) khi xác định được sẽ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 26A/CTr-VKS, ngày 31/3/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Đặng Ngọc T, La Quốc T1 về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b,i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Nguyễn Ngọc Thanh H, Phạm Thị Như U về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Hoàng Thế A, Bùi Đức T2 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà hôm nay, Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị:

Áp dụng điểm b,i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38; Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc T từ 09 đến 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt La Quốc T1 từ 08 đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38; Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt Nguyễn Ngọc Thanh H từ 07 đến 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt Phạm Thị Như U từ 07 đến 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Hoàng Thế A từ 01 năm 6 tháng đến 02 năm tù. Về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Bùi Đức T2 từ 01 năm 6 tháng đến 02 năm tù. Về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Miễn phạt bổ sung cho các bị cáo.

Áp dụng Điều 46, Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy: 07 gói niêm phong bên ngoài có chữ kí ghi tên Đặng Ngọc T, La Quốc T1, Hoàng Thế A, Bùi Đức T2 và hình dấu Công an Phường 14, quận Gò Vấp; 02 cân tiểu ly, 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút; 07 nỏ thủy tinh, 01 bình gas hiệu Bluesky và 01 biển số 52T2-X.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại Iphone số sim : 090X5951 và 540.000 đồng (của T); 01 điện thoại di động hiệu Vsmart màu đen sim số 090X1147; 01 xe máy biển số 72C2-X, số máy: JF63E 2122328, số khung: RLHJF6323HZ101978. (của Hoàng Thế A).

- Trả lại cho bị cáo Hoàng Thế A 01 điện thoại di động hiệu Oppo sim số 09664X36, trả lại cho bị cáo Bùi Đức T2 01 điện thoại di động hiệu Asus màu trắng (đã hỏng) và 01 điện thoại di động hiệu Samsung số sim: 09755X71; Trả lại cho bà Phạm Thị Ngọc L chiếc xe máy biển số 52T2-X (biển số giả); có số khung: RLHJA3228EY-041860, số máy: JA32E-0041954 (thu giữ của T2);

- Chuyển giao cho công an huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh chiếc xe gắn máy có biển số 84G1-X, có số khung RLCUG0610HY594613 và có số máy G3D4E619744 theo công văn số 2555/CV-CSĐT(MT), ngày 18/10/2019 của Công an quận Gò Vấp.

Buộc bị cáo La Quốc T1 nộp lại số tiền thu lợi bất chính 3.000.000 đồng, bị cáo Đặng Ngọc T nộp lại số tiền thu lợi bất chính 10.000.000 đồng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Đặng Ngọc T, La Quốc T1, Nguyễn Ngọc Thanh H và Phạm Thị Như U đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Hoàng Thế A, Bùi Đức T2 đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội. Mặc dù các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, sử dụng, mua bán ..... trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng các bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép chất ma tuý, bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Hành vi của các bị cáo đã tiếp tay duy trì sự mất ổn định trật tự xã hội, duy trì và tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội phát triển làm ảnh hưởng đến việc giảm sút sức lao động trong toàn xã hội… Do đó, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với các bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian dài cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho các bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và tiếp tục học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

Đối với bị cáo Đặng Ngọc T đã có hành vi bán ma túy trên 2 lần cho Bùi Đức T2, bán cho Hoàng Thế A cùng Bùi Đức T2 đồng thời với lượng ma túy T đã bán tổng cộng 17,0705g nên thuộc trường hợp “đối với 02 người trở lên” “02 lần trở lên” và “có khối lượng từ 5g đến dưới 30g” được qui định tại điểm b,c,i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo La Quốc T1 giúp T thực hiện hành vi bán ma túy nhiều lần và với lượng ma túy 5,4827g nên thuộc trường hợp “02 lần trở lên” và “có khối lượng từ 5g đến dưới 30g” được qui định tại điểm b,i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Đối với Nguyễn Ngọc Thanh H, Phạm Thị Như U giúp T thực hiện hành vi bán ma túy với lượng ma túy thu giữ 10,6915g nên thuộc trường hợp “có khối lượng từ 5g đến dưới 30g” được qui định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Xét tính chất mức độ hành vi của từng bị cáo cần thiết cân nhắc khi lượng hình. Đối với Hoàng Thế A, Bùi Đức T2 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với lượng ma túy 0,5549g và 0,3013g nên Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố các bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở.

Đối với Đặng Ngọc T xét nhân thân bị cáo đã từng bị xử lý về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với mức án 03 năm tù (đã được xóa án), những tưởng bị cáo với thời gian cải tạo sẽ thay đổi lối sống thì ngược lại bị cáo còn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm hơn. Do đó, cần thiết phải xem xét cân nhắc khi lượng hình cho bị cáo mức án tương xứng.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay các bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình các bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 249, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017, Hội đồng xét tính chất vụ án và các bị cáo La Quốc T1, Nguyễn Ngọc Thanh H, Phạm Thị Như U, Hoàng Thế A và Bùi Đức T2 không có nghề nghiệp ổn định và đang bị tạm giam nên Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho các bị cáo. Đối với Đặng Ngọc T thực hiện hành vi mua bán nhiều lần và nhiều người nhằm mục đích thu lợi bất chính nên Hội Đồng xét xử quyết định xử phạt bị cáo 10.000.000 đồng.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 07 (bảy) gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Đặng Ngọc T, La Quốc T1, Hoàng Thế A, Bùi Đức T2 và hình dấu Công an Phường 14, quận Gò Vấp; 02 cân tiểu ly, 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút; 07 nỏ thủy tinh, 01 bình gas hiệu Bluesky là chất và phương tiện bị cáo dùng để sử dụng ma túy nhà nước cấm lưu hành và sử dụng, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại Iphone số sim: 090X5951 và 540.000 đồng (của T); 01 xe máy biển số 72C2-X, số máy: JF63E 2122328, số khung: RLHJF6323HZ101978 và 01 điện thoại di động hiệu Vsmart màu đen sim số 090X1147 (của Hoàng Thế A) là phương tiện các bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo sim số 09664X36 là tư vật của Hoàng Thế A Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo Hoàng Thế A; 01 điện thoại di động hiệu Asus màu trắng (đã hỏng) và 01 điện thoại di động hiệu Samsung số sim: 09755X71 là tư vật của bị cáo Bùi Đức T2 Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo Bùi Đức T2;

Đối với chiếc xe gắn máy có biển số 52T2-X (biển số giả); có số khung: RLHJA3228EY-041860, số máy: JA32E-0041954 (thu giữ của T2) qua xác minh do bà Phạm Thị Ngọc L (mẹ ruột của T2) đứng tên chủ sở hữu, tháng 3/2019, bà L cho T2 mượn chiếc xe máy trên để đi làm, bà L không biết T2 sử dụng ma túy bà có đã đơn xin nhận lại chiếc xe, xét thấy xe có nguồn gốc rõ ràng và không liên quan đến vụ án Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bà Phạm Thị Ngọc L chiếc xe nói trên;

- Đối với biển số xe 52T2-X là biển số giả Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe máy biển số 72C2-X, số máy: JF63E 2122328, số khung: RLHJF6323HZ101978 bị cáo Hoàng Thế A, qua xác minh là do Hoàng Thế A đứng tên sỡ hữu, bị cáo đã sử dụng đi mua ma túy, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ nhà nước.

- Đối với xe máy biển số 84G1-X, số khung: RLCUG0610HY594613, số máy: G3D4E619744 (thu giữ của T). Qua xác minh chiếc xe trên do chị Lê Thị Hồng N trú tại tỉnh Trà Vinh. Chị N khai chị bị mất trộm chiếc xe máy biển số 84G1-X và giấy tờ xe để trong cốp xe trên vào ngày 09/04/2019 trước phòng thuê tại huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Đặng Ngọc T khai nhận đã cầm chiếc xe trên của 01 thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 20.000.000 đồng được khoảng 1 tháng do thấy xe có giấy tờ đầy đủ nên không biết là xe bị mất trộm. Do người thanh niên không quay lại chuộc xe nên T sử dụng xe làm phương tiện đi mua, bán ma túy. Cơ quan điều tra đã có công văn gửi Công an huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh để tiếp nhận xe máy biển số 84G1-X, số khung: RLCUG0610HY594613, số máy: G3D4E619744 để xử lý theo thẩm quyền điều tra. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết chuyển giao cho công an huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh chiếc xe gắn máy có biển số 84G1-X, có số khung RLCUG0610HY594613 và có số máy G3D4E619744 theo công văn số 2555/CV-CSĐT(MT), ngày 18/10/2019 của Công an quận Gò Vấp.

Buộc bị cáo La Quốc T1 nộp lại số tiền thu lợi bất chính 3.000.000 đồng, bị cáo Đặng Ngọc T nộp lại số tiền thu lợi bất chính 10.000.000 đồng.

Đối với người thanh niên tên T3 bán ma túy cho T (không rõ lai lịch) khi xác định được sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Ngọc T (Q), La Quốc T1 (B), Nguyễn Ngọc Thanh H, Phạm Thị Như U phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; Hoàng Thế A, Bùi Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Căn cứ điểm b,c,i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc T (Q) 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 04/6/2019.

Áp dụng khọản 5 Điều 251 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;

Buộc bị cáo nộp phạt 10.000.000 (mười triệu) đồng ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật để sung quỹ nhà nước.

Căn cứ điểm b,i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo La Quốc T1 (B) 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 04/6/2019.

Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Thanh H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 04/6/2019.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Như U 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 04/6/2019.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Hoàng Thế A 01 (một) năm 3 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 04/6/2019.

Xử phạt bị cáo Bùi Đức T2 01 (một) năm 3 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 04/6/2019.

Căn cứ Điều 46; Điều 47; Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a, b, c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy: 07 (bảy) gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Đặng Ngọc T, La Quốc T1, Hoàng Thế A, Bùi Đức T2 và hình dấu Công an Phường 14, quận Gò Vấp; 02 cân tiểu ly, 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút; 07 nỏ thủy tinh, 01 bình gas hiệu Bluesky.

- Tịch thu và tiêu hủy biển số 52T2-X (biển số giả).

- Tịch thu và sung quỹ nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại Iphone số sim : 090X5951 và 540.000 (năm trăm bốn mươi ngàn) đồng; 01 (một) chiếc xe máy biển số 72C2-X, số máy: JF63E 2122328, số khung: RLHJF6323HZ101978 và 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Vsmart màu đen sim số 090X1147.

- Trả lại cho bị cáo Hoàng Thế A 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo sim số 09664X36, bị cáo Bùi Đức T2 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung số sim: 09755X71 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Asus màu trắng (đã hỏng).

- Trả lại cho bà Phạm Thị Ngọc L chiếc xe gắn máy có biển số 52T2-X (biển số giả); có số khung: RLHJA3228EY-041860, số máy: JA32E-0041954.

Chuyển giao cho công an huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh chiếc xe gắn máy có biển số 84G1-X, có số khung RLCUG0610HY594613 và có số máy G3D4E619744 theo công văn số 2555/CV-CSĐT(MT), ngày 18/10/2019 của Công an quận Gò Vấp.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 204/PNK, ngày 24/10/2019 của Công an quận Gò Vấp).

Buộc bị cáo La Quốc T1 nộp lại số tiền thu lợi bất chính 3.000.000 đồng, bị cáo Đặng Ngọc T nộp lại số tiền thu lợi bất chính 10.000.000 đồng.

Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2020/HS-ST

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;