Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BN ÁN 36/2020/HS-ST NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2020/TLST – HS ngày 28 tháng 4 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2020/QĐXXST ngày 08 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo :

Bùi Ngọc C, sinh ngày 30 tháng 9 năm 1982 Nơi cư trú: thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh: Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Bùi Ngọc Y, sinh năm 1957 con bà Đào Thị T1 (đã chết). Bị cáo chưa có vợ con Tiền án: Tại Bản án hình sự số 05/2016/HSST ngày 02/02/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn C1, trú tại Thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình 4.000.000 đồng. Đến tháng 02/2017 chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa bồi thường số tiền 4.000.000 đồng cho ông C1.

Tiền sự: Ngày 21 tháng 10 năm 2019 bị công an huyện Thái Thụy xử phạt vi phạm hành chính về hành vi "Tàng trữ trái phép chất ma túy" bằng hình thức cảnh cáo.

Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi cho ăn học hết lớp 6/12. Từ tháng 7/2011 đến tháng 7/2012 bị áp dụng biện pháp cai nghiện tại trung tâm cai nghiện 05- 06 tỉnh Thái Bình.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/02/2020 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

Những người chứng kiến Ông: Giang Văn L, sinh năm 1957 (Vắng mặt) Ông: Phạm Khắc L2, sinh năm 1962 (Vắng mặt) Đều cư trú tại: thôn S, xã TT, huyện T, tỉnh Thái Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy, nên khoảng 08 giờ ngày 12/02/2020, Bùi Ngọc C đi nhờ xe của một người không quen biết từ nhà đến khu vực gần nhà thờ thuộc thôn S, xã TT huyện Thái Thụy mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ cụ thể 02 gói ma túy loại Heroine với giá 200.000 đồng, C cho 02 gói ma túy vào vỏ bao thuốc lá Thăng Long rồi cầm trong lòng bàn tay phải đi bộ về, khi đi được một đoạn thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng Trà Lý phát hiện, C tự giác giao 02 gói ma túy được gói bằng giấy tráng kim loại màu trắng, mở ra bên trong 02 gói đều có chất bột màu trắng dạng cục, C khai đó là Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân. Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, quản lý và niêm phong vật chứng gửi giám định.

Ti bản kết luận giám định số 52/KLGĐ – PC 09 ngày 12/02/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận “ Mẫu số A1 gửi giám định thu giữ của Bùi Ngọc C là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,1212 gam ” Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận giám định nêu trên.

Ti bản cáo trạng số 36/CT- VKSTT ngày 28 tháng 4 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo Bùi Ngọc C về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy " theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Ngọc C từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù; không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung; đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

n cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác vắng mặt được công bố tại phiên tòa

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Thái Thụy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Người chứng kiến vắng mặt nhưng tại giai đoạn điều tra họ đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án [3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, truy tố phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản quản lý niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[4]. Như vậy đủ căn cứ để xác định: Khoảng 08 giờ 35 phút, ngày 12/02/2020, tại địa phận thuộc thôn S, xã TT, huyện T, tỉnh Thái Bình, Đồn biên phòng Trà Lý phát hiện bắt quả tang Bùi Ngọc C có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy, loại Heroine có khối lượng 0, 1212 gam, mục đích để sử dụng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy do nhà nước độc quyền quản lý, nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ để sử dụng, thể hiện sự coi thường pháp luật Hành vi đó đã phạm vào tội " Tàng trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điu 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm

c). Hêrôin, coocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

[5]. Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, làm khánh kiệt về kinh tế, là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn cho xã hội, bị cáo có 01 tiền án về tội "Trộm cắp tài sản" chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo bị một tình tiết tăng nặng là Tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, có 01 tiền sự về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và là người có nhân thân xấu, từng bị đưa đi cơ sở cai nghiện nên cần thiết phải quyết định một hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

[6]. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo bản thân là đối tượng nghiện ma túy, lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo khai mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, đặc điểm nhận dạng, địa chỉ cụ thể ở khu vực thôn S, xã TT nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh xử lý.

[8]. Về xử lý vật chứng của vụ án: Số ma túy cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo có khối lượng 0,1212 gam, sau khi lấy mẫu giám định còn lại là 0,0814 gam. Đây là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy [9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố : Bị cáo Bùi Ngọc C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy "

2.Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc C 01 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 12 tháng 02 năm 2020.

Kng áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo

3.Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Tch thu tiêu huỷ toàn bộ 0,0814 gam Heroine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định thu giữ của bị cáo. (Vật chứng như trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữ cơ quan công an và Chi cục thi hành án huyện Thái Thụy ngày 29 tháng 4 năm 2020)

4.Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về Án phí, Lệ phí Tòa án Bị cáo Bùi Ngọc Cường phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm .

5. Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2020/HS-ST

Số hiệu:36/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;