Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng N(tên gọi khác: Nguyễn Văn N), sinh ngày 28 tháng 7 năm 1993 tại thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Không có; chỗ ở trước khi bắt: Khối 5, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T(đã chết) và bà Đặng Thị D, sinh năm 1964; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không, tiền sự: Tại Quyết định số 13/QĐ-TA ngày 28-3-2019 Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 18 tháng (chưa được xoá vi phạm); nhân thân: Tại bản án số 76/HS-ST, ngày 28-9-2012 Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Lạng Sơn xử 09 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc (đã được xoá án tích), chưa bị xử lý kỷ luật; bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12-01-2022 tại Nhà tạm giữ, Công an huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Đặng Thị D, sinh năm 1964; có mặt.

2. Bà Phan Thị M, sinh năm 1969; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 12-01-2022, Tổ công tác Công an huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Công an thị trấn L, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại khu M, thị trấn L, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn phát hiện Nguyễn Hoàng N có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra phát hiện và thu giữ trên tay phải Nguyễn Hoàng N đang cầm 01 (một) gói giấy màu trắng đục, bên trong có 01 (một) gói nilon màu trắng, chứa chất tinh thể màu trắng và một phần viên nén màu đỏ nghi là chất ma túy tổng hợp. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và đưa về trụ sở để làm việc.

Quá trình điều tra, Nguyễn Hoàng N khai nhận: Do bản thân là người nghiện ma túy. Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 12-01-2022, Nguyễn Hoàng N nảy sinh ý định đi mua ma túy tổng hợp về sử dụng. Nguyễn Hoàng N một mình bắt taxi đi đến đường T, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn với mục đích để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, Nguyễn Hoàng N gặp và đặt vấn đề hỏi mua ma túy với một người đàn ông lạ mặt (không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể). Người đàn ông này đồng ý và bán cho Nguyễn Hoàng N 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong gói nilon có chứa chất tinh thể màu trắng và một phần viên nén màu đỏ là ma túy tổng hợp với giá tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, Nguyễn Hoàng N lấy 01 (một) tờ giấy màu trắng đục bọc bên ngoài gói ma túy rồi một mình đón xe khách đến thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Khi đi đến khu M, thị trấn L, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn Nguyễn Hoàng N xuống xe. Khi đang đi bộ thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Tại bản Kết luận giám định số 64/KL-PC09 ngày 14-01-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Các hạt chất tinh thể màu trắng và một phần viên nén màu đỏ gửi giám định đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,286 gam (đã trừ bì).

Vật chứng thu giữ: 01 (một) phong bì thư ghi chữ "Vật chứng thu giữ của Nguyễn Hoàng Nkhi bị bắt quả tang"(cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Bùi Anh Thái, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới, bên trong có 01 (một) túi nilon (cũ) đựng tổng cộng 0,246 gam chất ma túy Methamphetamine (phần hao hụt là do dùng làm mẫu giám định hết) và vỏ bao gói (cũ); 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng hồng, dạng màn hình cảm ứng, có số IMEI1: 862651038533417; số IMEI2: 862651038533409, tình trạng máy cũ đã qua sử dụng, màn hình có vết nứt, vỡ.

Cáo trạng số 35/CT-VKSLB, ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà bị cáo Nguyễn Hoàng N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu ở trên.

Người làm chứng bà Đặng Thị D trình bày: Bà là mẹ đẻ của Nguyễn Hoàng N (tức Nguyễn Văn N), bà kết hôn với ông Nguyễn Văn T và sinh được 3 người con, Nguyễn Hoàng N là con thứ 2, đến năm 1997 thì vợ chồng bà ly hôn. Ngày 13-4-2012 Nguyễn Hoàng N bị Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn lập hồ sơ AK, Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 09 tháng tù; ngày 18-02-2019 Nguyễn Hoàng N sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố L lập hồ sơ TT; bà đã có 01 tiền án đến tháng 12 năm 2021 bà chấp hành xong hình phạt tù, sau khi bà chấp hành xong án phạt tù bà có về ở tại Khối 5, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn và Nguyễn Hoàng N con trai ruột của bà cũng đến ở cùng, đến nay bà đang đi làm thuê nên bà đã chuyển về nhà bạn ở tại địa chỉ số 01, đường Bà Triệu, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn cho gần chỗ đi làm.

Người làm chứng bà Phan Thị M vắng mặt tại phiên tòa, lời khai trong hồ sơ thể hiện: Bà với bà Đặng Thị D là bạn bè quen biết ngoài xã hội, bà đã cho Đặng Thị D và con trai Nguyễn Hoàng N ở nhà bà vì bà quý và thương hoàn cảnh gia đình của bà Đặng Thị D và con trai Nguyễn Hoàng Nam.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn phát biểu tại phiên tòa vẫn giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng Nphạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; 50 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 (một) túi nilon (cũ) đựng tổng cộng 0,246 gam chất ma túy Methamphetamine (phần hao hụt là do dùng làm mẫu giám định hết) và vỏ bao gói (cũ). Tuyên trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng hồng, dạng màn hình cảm ứng, có số IMEI1: 862651038533417; số IMEI2: 862651038533409, tình trạng máy cũ đã qua sử dụng, màn hình có vết nứt, vỡ. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo nhận thấy lỗi lầm của bản thân, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm cải tạo trở về đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Việc vắng mặt của người làm chứng bà Phan Thị M tại phiên tòa, hồ sơ thể hiện bà đã có lời khai, xét thấy việc vắng mặt của bà không ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có đủ căn cứ xác định: Nguyễn Hoàng N là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, đã đi mua ma tuý để sử dụng cho bản thân. Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 12-01-2022, Tổ công tác Công an huyện L, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Công an thị trấn L, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại khu M, thị trấn L, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Nguyễn Hoàng N đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng 0,286 gam (đã trừ bì). Do đó có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Hoàng N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, với hành vi trên Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Ma túy là chất gây nghiện cao, có tác hại nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe con người, gây thiệt hại về kinh tế. Ma túy còn là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn trong xã hội. Bị cáo là người có đủ độ tuổi, năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma túy và quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần được xử lý nghiêm trước pháp luật.

[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân không tốt là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, tại bản án số 76/HS-ST, ngày 28-9-2012 Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Lạng Sơn xử 09 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc (đã được xoá án tích); bị cáo có 01 tiền sự tại Quyết định số 13/QĐ-TA ngày 28-3-2019 Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 18 tháng (đã chấp hành xong nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính). Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Để giáo dục bị cáo trở thành người có ích, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ thời gian để bị cáo cải tạo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội, qua đó làm gương cho những người khác có ý định phạm tội tương tự. Tuy nhiên, cũng cần xem xét đến tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo cho tốt.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền là hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện: Bị cáo là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, không có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú là công dân tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 (một) túi nilon (cũ) đựng 0,246 gam chất ma túy Methamphetamine (phần hao hụt là do dùng làm mẫu giám định hết) và vỏ bao gói (cũ) là vật Nhà nước cấm tàng trữ cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng hồng, dạng màn hình cảm ứng, có số IMEI1: 862651038533417; số IMEI2: 862651038533409, tình trạng máy cũ đã qua sử dụng, màn hình có vết nứt, vỡ do không liên quan đến hành vi phạm tội cần tuyên trả cho bị cáo theo quy định tại Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Nguyễn Hoàng N tại khu vực đường T, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, do bị cáo không biết được họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn không có căn cứ để điều tra làm rõ.

[10] Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo và các nội dung khác của vụ án. Xét thấy đề nghị này là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Hoàng N (tức Nguyễn Văn N) bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 38, 50; điểm a, b khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 293; khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng N (tức Nguyễn Văn N) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng N (tức Nguyễn Văn N) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 12-01-2022.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1.Tịch thu tiêu hủy: 0,246 gam chất ma túy Methamphetamine (phần hao hụt là do dùng làm mẫu giám định hết) và vỏ bao gói (cũ) đựng trong 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 (một) túi nilon (cũ).

3.2. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Hoàng N (tức Nguyễn Văn N) 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng hồng, dạng màn hình cảm ứng, có số IMEI1: 862651038533417; số IMEI2: 862651038533409, tình trạng máy cũ đã qua sử dụng, màn hình có vết nứt, vỡ.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30 tháng 5 năm 2022).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hoàng N (tức Nguyễn Văn N) phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2022/HS-ST

Số hiệu:35/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Bình - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;