Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 35/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 35/2022/HSST NGÀY 16/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2022/HSST ngày 13 tháng 5 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST – HS ngày 03 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Lò Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1987 tại: Huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản N Ả, xã M L, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông Lò Văn Th, sinh năm: 1965 và bà Lò Thị H, sinh năm: 1966; bị cáo có vợ là Lò Thị L, sinh năm: 1986 và có 02 con (Lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2008); tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 16/3/2010, bị cáo Lò Văn T bị Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số: 06/2010/HSST); ngày 14/5/2013, bị cáo Lò Văn T bị Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án số: 30/2013/HSST).

Trong vụ án này bị cáo bị tạm giữ ngày 30/01/2022, chuyển tạm giam ngày 08/02/2022. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 12 giờ 00 phút ngày 30/01/2022, tại khu vực bản bản Nà Ản, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La phối hợp với Đồn Biên Phòng Mường Lạn, trong quá trình làm nhiệm vụ đã phát hiện, bắt quả tang đối tượng Lò Văn T (Sinh năm: 1987 trú tại: Bản N Ả, xã M L, huyện Sốp Cộp) về hành vi cất dấu trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: Thu trong lòng bàn tay phải của Lò Văn T 01 gói nilon màu hồng, bên trong chứa 50 viên nén hình trụ tròn màu hồng (Nghi là ma túy).

Ngày 01/02/2022, tại cơ quan CSĐT Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã tiến hành cân tịnh số vật chứng là 50 viên nén hình trụ tròn màu hồng, do thu giữ của Lò Văn T, có tổng khối lượng là 4,58 gam (Bốn phẩy năm mươi tám gam), lấy 05 viên có khối lượng 0,48 gam, ký hiệu T làm mẫu gửi giám định. Số còn lại 45 viên có khối lượng 4,10 gam, ký hiệu T1 lưu kho vật chứng.

Tại bản Kết luận giám định số: 353 ngày 05/02/2022 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: " Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,48 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 4,58 gam, loại Methamphetamine.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sốp cộp, bị can Lò Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 30/01/2022, Lò Văn T đi bộ một mình từ nhà ở bản N Ả, xã M L, huyện Sốp Cộp đến bản Huổi Pá, xã Mường Lạn để tìm mua ma túy sử dụng. Khi đến giữa bản Huổi Pá, xã Mường Lạn thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông đang đi trên đường, T đến làm quen thì người đó giới thiệu mình tên là Su, T hỏi Su có bán ma túy không thì Su nói có nên T đưa Su 700.000 đồng, Su nhận tiền rồi đi vào trong bản Huổi Pá khoảng 30 phút sau đó quay lại đưa cho T một gói nilon màu hồng bên trong có 50 viên hồng phiến. T cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái rồi đi bộ về nhà, trên đường về đến khu vực bản Nà Ản, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp thì bị tổ công tác Công an xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La phối hợp với Đồn Biên Phòng Mường Lạn, phát hiện bắt quả tang khi đang cất dấu 50 viên ma túy, loại Methamphetamine có tổng khối lượng 4,58 gam như đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số: 21/CT - VKSSC ngày 11/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Lò Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, giữ quan điểm truy tố bị cáo, với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 48 đến 52 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng:

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 4,10 gam Methamphetamine (Số còn lại sau khi trích rút 0,48 gam gửi giám định); 01 mảnh ni lon màu hồng và 01 phong bì thư niêm phong ban đầu đã bóc mở.

Về án phí: Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo có ý kiến: Ngày 30/01/2022 đã bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 4,58 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc bị cáo thành khẩn khai nhận tội mà giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 30/01/2022, bị cáo Lò Văn T (Có căn cước lý lịch như trên) đã bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 4,58 gam ma túy, loại Methamphetamine. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự để biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vật nhà nước cấm mua, bán, sử dụng. Nhưng vì đua đòi, mắc nghiện ma túy mà bất chấp quy định của pháp luật cố ý thực hiện nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ là ma túy; kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn T đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine,Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.".

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước hết là xâm hại đến chính sức khỏe của bị cáo, sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng; là nguyên nhân làm phát sinh, lây lan tệ nạn sử dụng trái phép chất ma túy trong xã hội hiện nay. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ý thức chấp hành pháp luật.

[4] Tình tiết tăng nặng: Không.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội. Nên được xem xét áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Tình tiết nhân thân: Bị cáo đã từng bị kết án về các tội Trộm cắp tài sản và Tàng trữ trái phép chất ma túy vào các năm 2010 và 2013. Mặc dù tính đến thời điểm phạm tội trong vụ án này đã được xóa án tích, nhưng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu, không chịu hoàn lương, để làm căn căn cứ quyết định mức hình phạt nghiêm khắc, theo quy định tại Điều 50 Bộ luật hình sự.

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào biên bản xác minh xác định bị cáo không có tài sản để thi hành. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với vật chứng là 4,10 gam Methamphetamine (Số còn lại sau khi trích rút 0,48 gam gửi giám định) là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời là vật cấm lưu hành. Cần áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; để tuyên tịch thu tiêu hủy 4,10 gam Methamphetamine cùng với 01 mảnh ni lon màu hồng và 01 phong bì thư niêm phong ban đầu đã bóc mở.

[9] Đối với nguồn gốc ma túy bị bắt giữ, theo bị cáo khai do mua của một người đàn ông dân tộc Mông tên Su mới biết lần đầu tại khu vực bản Huổi Pá, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp. Quá trình điều tra do bị cáo không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng cụ thể của đối tượng. Do vậy cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ và bị cáo phải chịu trách nhiệm đối với khối lượng ma túy bị bắt giữ.

[9] Bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[10] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn T 50 (Năm mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 30/01/2022 (Ngày tạm giữ bị cáo).

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ: 01 (Một) phong bì thư của Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, đã được niêm phong dán kín bằng giấy niêm phong, một mặt phong bì ghi: "Vật chứng lưu kho vụ: Lò Văn T - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 30/01/2022 tại: Bản Nà Ản, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Bên trong phong bì có chứa 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở;

01 mảnh ni lon màu hồng đựng ban đầu; 01 túi nilon màu trắng ký hiệu T1 có chứa 45 viên nén hình trụ tròn màu hồng có tổng khối lượng 4,1 gam".

(Theo kết luận giám định số: 353 ngày 05/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, thì 45 viên nén hình trụ tròn màu hồng có tổng khối lượng 4,1 gam là ma túy, loại Methamphetamine).

3. Về án phí:

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Miễn cho bị cáo không phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Báo cho bị cáo biết quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (16/6/2022)./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 35/2022/HSST

Số hiệu:35/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;