Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 349/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 349/2023/HS-PT NGÀY 16/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 359/2023/TLPT-HS ngày 07 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Trần Anh A1 do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HS-ST ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

- Bị cáo có kháng cáo: Trn Anh A1 sinh ngày 14/4/1976 tại tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: Khu 3, phường Đ1, thị xã Đ1, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Cao M1 và bà Vũ Thị H1; chưa có vợ con; tiền sự: chưa; tiền án: Ngày 21/6/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Đ1, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (chấp hành xong án phạt tù từ ngày 28/9/2018), ngày 26/3/2019 bị Tòa án nhân dân thị xã Đ1, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (chấp hành xong án phạt tù từ ngày 29/10/2020); nhân thân: Ngày 07/6/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (chấp hành xong án phạt tù từ ngày 03/6/2010); bị bắt ngày 12/10/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Anh A1: Luật sư Đỗ Tuấn N1 - Công ty Luật TNHH KB thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

- Các bị cáo không kháng cáo, không bị kháng nghị (không triệu tập đến phiên tòa):

1. Lê Văn D1 sinh ngày 08/3/1994 tại tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: Tổ 2, khu M2, phường Đ2, thành phố L1, tỉnh Quảng Ninh.

2. Nguyễn Thế D2 sinh 24/02/1989 tại Quảng Ninh; nơi cư trú: Khu X1 3, phường H2, thị xã Đ1, tỉnh Quảng Ninh.

3. Lê Văn H3 sinh ngày 10/9/1997 tại tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: Khu T1, phường H2, thị xã Đ1, tỉnh Quảng Ninh.

4. Võ Thị N2 sinh ngày 20/6/1994 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn T2, xã Q1, huyện Q2, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 11/10/2021, tại khu vực khu T1, phường H2, thị xã Đ1, tỉnh Quảng Ninh. Công an thị xã Đ1 phát hiện, bắt quả tang Lê Văn H3 đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 túi nilon chứa 0,151 gam, giám định là ma túy Methamphetamine. Khám xét khẩn cấp nơi ở của H3 thu giữ 0,013gam giám định là ma túy Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, H3 khai nhận toàn bộ số ma túy bị thu giữ H3 mua của Lê Văn D1, mục đích để sử dụng.

Cùng ngày 11/10/2021, Cơ quan điều tra tiến hành bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Văn D1. Khám xét khẩn cấp nơi ở của D1, Cơ quan điều tra thu giữ nhiều viên nén màu hồng, tổng khối lượng là 46,635 gam giám định là ma túy Methamphetamine và nhiều túi ni lon chứa chất tinh thể màu trắng, tổng khối lượng 5,481 gam giám định là ma túy Ketamine và 01 bộ sử dụng ma túy đá trong cóng thuỷ tinh có chứa chất tinh thể màu trắng, giám định là ma túy Methamphetamine dạng vết, không xác định được khối lượng.

Tại Cơ quan điều tra D1 khai nhận: Số ma túy bị Công an thu giữ tại nhà của D1 là do D1 mua của Trần Anh A1. D1 còn khai: D1 vừa tổ chức cho Võ Thị N2, là bạn gái D1 sử dụng ma túy đá tại nhà.

Ngày 13/10/2021, Cơ quan điều tra tiến hành bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Anh A1 và khám xét nơi ở của A1, thu giữ 0,25 gam ma túy Methamphetamine và 0,204 gam ma túy Hêrôin (Theo Kết luận giám định số 1943 ngày 19/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh).

Cơ quan điều tra đã thu mẫu nước tiểu của D1 và N2. Tại Phiếu xét nghiệm ngày 14/10/2021, Trung tâm Y tế thị xã Đ1 xác định: Trong mẫu nước tiểu thu giữ của D1, N2 tìm thấy chất ma túy Methamphetamine.

Ngày 08/6/2022, N2 có đơn đầu thú về việc ở cùng với D1 đã thấy D1 nhiều lần chia nhỏ ma túy để bán và tố giác đầu tháng 07/2021, N2 được chứng kiến việc Nguyễn Thế D2 cùng Trần Anh A1 bán ma túy Methamphetamine cho D1 tại nhà D2.

Ngày 09/06/2022, Cơ quan điều tra triệu tập Nguyễn Thế D2. D2 đã đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Quá trình điều tra xác định Trần Anh A1 đã 03 lần bán trái phép 51,45 gam ma túy Methamphetamine cho D1, 01 lần bán 01 gói ma túy Heroine giá 200.000 đồng cho Trần Mạnh H4 và tàng trữ 0,25 gam ma túy Methamphetamine, 0,204 gam ma túy Heroine để sử dụng. Nguyễn Thế D2 giúp A1 bán 12,5 gam ma túy Methamphetamine cho D1, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất, thứ hai (bán 01 gói ma túy Heroine giá 200.000 đồng và bán 7,5gam Methamphetamine): Vào buổi chiều ngày đầu tháng 7/2021, D1 gọi điện cho D2 đặt vấn đề muốn mua ma túy với số lượng lớn, chất lượng đảm bảo về để bán và nhờ D2 tìm người bán. D2 đồng ý và bảo D1 đến nhà D2 tại khu X1 3, phường H2, thị xã Đ1 để bàn bạc. Sau đó, D1 rủ N2 đến nhà D2. Tại đây, D2 gọi H4 đến và đưa cho H4 200.000 đồng để H4 đi gặp A1 mua 1 gói ma túy Heroine để D2 và H4 sử dụng. Sau khi nhận tiền của D2, H4 đến cổng nhà A1 đưa cho A1 200.000 đồng. A1 nhận tiền và hẹn cứ về nhà, lúc nữa A1 cầm ma túy xuống cho. Khoảng 10 phút sau, A1 gọi điện và đến nhà D2 bán 01 gói ma túy cho H4. Khi gặp A1, D2 nói với A1 về việc D1 muốn mua ma túy rồi dẫn A1 vào phòng ngủ nhà D2 để gặp D1. D1 yêu cầu A1 cho kiểm tra chất lượng ma túy. A1 đưa ma túy cho D1 thử. Khi thấy chất lượng ma túy đảm bảo, D1 bảo A1 bán cho D1 10 gam ma túy Methamphetamine nhưng do chỉ còn 7,5 gam ma túy Methamphetamine nên A1 đã bán hết cho D1 với giá 700.000 đồng/gam. Sau khi mua được ma túy, D1 đi về phường Đ2, thành phố L1, còn D2 và H4 sử dụng hết gói ma túy Heroine đã mua được của A1.

- Lần thứ ba (Bán 05gam Methamphetamine): Giữa tháng 7/2021, D1 điện thoại cho A1 hỏi mua 05 gam ma túy Methamphetamine. A1 đồng ý và báo giá bán là 3.500.000 đồng. D1 bảo A1 mang ma túy xuống nhà D1 tại khu M2, phường Đ2. A1 điện thoại cho D2, bảo D2 chở A1 xuống bán 05 gam ma túy Methamphetamine cho D1.

- Lần thứ tư (Bán 38,95gam Methamphetamine): Khoảng đầu tháng 10/2021, D1 gọi điện hỏi A1 mua ma túy thì A1 bảo hiện đang có 35 gam ma túy Methamphetamine và 40 viên ma túy hồng phiến bán với giá 25.500.000 đồng. D1 đồng ý mua và yêu cầu A1 mang ma túy xuống nhà giao cho D1, A1 bảo D1 phải thanh toán thêm 500.000 đồng để A1 trả tiền taxi. Sau đó, A1 điện thoại cho H4 bảo H4 điều khiển xe ô tô chở A1 từ thị xã Đ1 xuống khu vực đường Quốc lộ 18A đoạn rẽ vào Lữ đoàn Hải Quân 147 thuộc phường Đ2. A1 điện thoại cho D1 ra nhận ma túy. Đến nơi, D1 lên xe được A1 giao toàn bộ số ma túy trên, D1 trả trước cho A1 20.000.000 đồng còn nợ lại 6.000.000 đồng.

Ngày 09/10/2021, A1 gọi điện yêu cầu D1 phải thanh toán nốt số tiền nợ mua ma túy, do chỉ còn 5.000.000 đồng nên D1 đã đến cửa hàng điện thoại của anh Hoàng Văn D3 (sinh năm 1990, trú tại: Khu 1, QT, phường Đ2, thành phố L1) nhờ anh Hoàng Văn D3 chuyển 5.000.000 đồng vào tài khoản Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) cho A1. D1 còn nợ lại A1 1.000.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số 1943/GĐMT ngày 19/10/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh đã xác định: Đối với 28 viên ma túy hồng phiến thu giữ tại nhà của Lê Văn D1 có khối lượng 2,798 gam là ma túy Methamphetamine, trong đó 01 viên có khối lượng thấp nhất là 0,096 gam. Áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo, tính khối lượng ma túy đã mua bán theo khối lượng thấp nhất. Theo đó 12 viên ma túy Methamphetamine có khối lượng là 1,152gam (12 viên x 0,096gam). Như vậy, tổng khối lượng A1 đã bán 40 viên ma túy Methamphetamine cho D1 có khối lượng 3,95gam Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, A1 không thừa nhận bán ma túy cho D1 mà chỉ nhận do bản thân nghiện ma túy nên ngày 10 và ngày 11/10/2021 A1 đi đến khu vực nghĩa trang xã Bình Khê, thị xã Đ1 mua được của 01 người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy Methamphetamine và 01 gói ma túy Heroine với giá 800.000 đồng. A1 đã sử dụng một phần, phần ma túy còn lại gồm 0,25 gam ma túy Methamphetamine, 0,204 gam ma túy Heroine A1 cất giấu để sử dụng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HS-ST ngày 24 tháng 02 năm 2023, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định:

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Anh A1 phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 251; điểm i khoản 1 Điều 249; các điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 55 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Anh A1 17 (Mười bẩy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 18 (Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội, buộc bị cáo Trần Anh A1 phải chấp hành hình phạt chung là 18 (Mười tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt là ngày 12/10/2021.

3. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự: Buộc bị cáo Trần Anh A1 có nghĩa vụ nộp số tiền 33.950.000 (ba mươi ba triệu chín trăm năm mươi nghìn) đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Lê Văn D1, Nguyễn Thế D2, Lê Văn H3, Võ Thị N2; về xử lý vật chứng khác, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 06 tháng 3 năm 2023, bị cáo Trần Anh A1 có đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo chỉ bán ma túy cho Lê Văn D1 03 lần với tổng khối lượng khoảng 26 gam Methamphetamine, trong đó lần bán thứ nhất và thứ hai đúng như Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết, lần thứ 3 bị cáo bán khoảng 13 gam Methamphetamine, còn gói Heroine trị giá 200.000 đồng là do bị cáo cho Trần Mạnh H4 và xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Anh A1 giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trần Anh A1 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là 18 năm 06 tháng tù, là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo nhận tội nhưng mức độ chưa thật sự thành khẩn nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo A1, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo A1.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Anh A1: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo đã nhận tội nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo đối với tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử sơ thẩm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Anh A1 thừa nhận hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” cho Lê Văn D1 nhưng cho rằng chỉ bán cho Lê Văn D1 03 lần với tổng khối lượng khoảng 26 gam Methamphetamine, trong đó lần bán ma túy thứ nhất và thứ hai đúng như bản án sơ thẩm đã mô tả và quy kết, lần thứ 03 bị cáo A1 bán khoảng 13 gam Methamphetamine, còn gói Heroine trị giá 200.000 đồng là do bị cáo cho Trần Mạnh H4; đối với hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị cáo A1 hoàn toàn thừa nhận như bản án sơ thẩm đã mô tả và quy kết. Căn cứ vào các lời khai tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm của các bị cáo Lê Văn D1, Nguyễn Thế D2, Lê Văn H3, Võ Thị N2; lời khai của người làm chứng là ông Hoàng Văn D3, ông Trần Mạnh H4, lời khai của bị cáo A1 tại phiên tòa phúc thẩm; vật chứng đã thu giữ, kết quả giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở cơ sở để xác định: Trong thời gian từ tháng 7/2021 đến đầu tháng 10/2021, tại thị xã Đ1, tỉnh Quảng Ninh và phường Đ2, thành phố L1, tỉnh Quảng Ninh, bị cáo A1 đã có hành vi 03 lần bán tổng số 51,45 gam ma túy, loại Methamphetamine cho Lê Văn D1 và 01 lần bán 01 gói ma túy Heroine giá 200.000 đồng cho Trần Mạnh H4; ngoài ra, ngày 11/10/2021, bị cáo A1 còn tàng trữ 0,25 gam ma túy Methamphetamine và 0,204 gam ma túy Heroine với mục đích để sử dụng thì bị Công an phát hiện, thu giữ vật chứng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo A1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251, điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho đời sống xã hội. Ma túy là loại độc dược không những hủy hại cho sức khỏe của người sử dụng, mà còn gây tác hại nhiều mặt trong đời sống xã hội và là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống; nhận thức đầy đủ về tác hại của ma túy, tệ nạn về ma túy nhưng bị cáo đã mua bán trái phép với số lượng ma túy lớn nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để răn đe, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung.

[4] Bị cáo A1 đã nhiều lần mua bán ma túy và đã có tiền án, chưa được xóa án nay tiếp tục phạm tội nên phải các chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại các điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo không thừa nhận hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” nên Tòa án cấp sơ thẩm không cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo A1 17 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là 18 năm 06 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và vai trò, nhân thân và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo A1, thấy rằng: Như đã nêu trên, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và vai trò, nhân thân và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo mới xuất hiện tại phiên tòa phúc thẩm và thuộc trường hợp quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo A1, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo A1 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo A1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[6] Do vậy, lời đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo A1 là chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo A1, áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, sửa quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo A1, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo A1 đối với tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, là có cơ sở nên được chấp nhận; ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội là không áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo A1, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo A1, là không có cơ sở nên không được chấp nhận.

[7] Do được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo A1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Anh A1, sửa một phần quyết định về hình phạt đối với bị cáo Trần Anh A1 của Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2023/HS-ST ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.

1. Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 251; điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 55 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Anh A1 16 (Mười sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Trần Anh A1 phải chấp hành hình phạt chung chung của cả hai tội là 18 (mười tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2021.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Anh A1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 349/2023/HS-PT

Số hiệu:349/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;