TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 34/2022/HS-ST NGÀY 04/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 04 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2022, đối với bị cáo:
Lê Quang V, sinh năm 1987 tại Hà Nam; tên gọi khác: không; nơi ĐKNKTT; chỗ ở: Tổ 1, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quang Y, sinh năm 1958 và bà Phạm Thị Q, sinh năm 1959; vợ: Lưu Thị H G, sinh năm 1986 (đã ly hôn năm 2019), con: có 02 con lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: năm 2018 Công an phường T,thành phố P xử phạt 750.0000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 21 tháng 12 năm 2021 đến ngày 27 tháng 12 năm 2021 chuyển tạm giam đến nay; có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lê Quang Y, sinh năm 1958. Trú tại: Tổ 1, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam; vắng mặt
* Người làm chứng: Anh Phạm Tiến D, sinh năm 1981; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 21/12/2021, Lê Quang V điều khiển xe máy biển kiểm soát 90F6-4716 đi một mình từ nhà đến huyện T để tìm mua ma túy nhưng không mua được. Sau đó, V điều khiển xe mô tô đi đến tổ dân phố B, phường T, thành phố P thì gặp 01 người thanh niên khoảng 30 tuổi (không rõ nhân thân, lai lịch), V hỏi người thanh niên “ông có hàng bán không để cho tôi ba trăm ngựa”, ý V hỏi mua 300.000đ ma túy thì người này nói “có đưa tiền đây”. V đưa cho người này 300.000đ, người thanh niên cầm tiền rồi đưa lại cho V 01 gói giấy bạc màu trắng, biết đó là gói ma túy nên V cầm đút vào túi áo bên trái đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về. Khi đi đến đoạn đường T, thuộc tổ dân phố B, phường T, thành phố P thì bị lực lượng công an yêu cầu kiểm tra phát hiện túi áo khoác V đang mặc có 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa 03 viên nén màu đỏ hồng và các hạt tinh thể màu trắng. Tại chỗ V khai nhận đó là gói ma túy cất giữ mục đích để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa V về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định pháp luật, thu giữ vật chứng, tài sản gồm:
01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa 03 viên nén màu đỏ hồng và các hạt tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 xe mô tô biển kiểm soát 90F6-4716; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen.
Cùng ngày, Công an phường T, thành phố P đã chuyển hồ sơ, đối tượng Lê Quang V và vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) Công an thành phố Phủ Lý để giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 22/12/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Lê Quang Văn tại tổ 1, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì.
Tại bản kết luận giám định số 258/PC09-MT ngày 25/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận “Mẫu viên nén màu đỏ trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,284g, loại Methamphetamine; mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,102g, loại Methamphetamine”.
Tại bản cáo trạng số 45/CT-VKS-PL ngày 10/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Lê Quang V về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Lê Quang V theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến thay đổi, bổ sung gì. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 24 đến 30 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy toàn bộ ma túy và bao gói hoàn trả sau giám định là các vật cấm lưu hành; trả lại bị cáo một điện thoại di động Nokia màu đen, điện thoại cũ đã qua sử dụng; trả lại ông Lê Quang Y một xe máy biển kiểm soát 90F6-4716 nhãn hiệu Honda α, xe cũ đã qua sử dụng.
Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả, không tranh luận, bào chữa và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt ở mức thấp nhất để bị cáo sớm có cơ hội trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến phản đối hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ là hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt và công bố lời khai theo đúng quy định của pháp luật.
[3] Đánh giá về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Lê Quang V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, bản kết luận của cơ quan giám định về ma túy cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Như vậy HĐXX có đủ chứng cứ buộc tội kết luận:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 21/12/2021 tại tổ dân phố B, phường T, thành phố P, Lê Quang V đang cất giấu trái phép 0,386 gam chất ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường T, thành phố P phát hiện bắt quả tang. Do đó hành vi của bị cáo Lê Quang V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.
[4] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, tuy không có tiền án, tiền sự nhưng năm 2018 đã từng bị Công an phường T, thành phố P xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục nghiện ma túy dẫn đến phạm tội về ma túy thể hiện bị cáo coi thường pháp luật, khó tự cải tạo bản thân.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[5] Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn thành phố P. Là nguyên nhân trực tiếp phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm nguy hiểm khác gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cần tuyên mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.
- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, mục đích tàng trữ ma túy để sử dụng không có mục đích trục lợi nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Xử lý vật chứng:
Đối với toàn bộ số ma túy hoàn trả sau giám định cùng bao gói thu giữ của bị cáo là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 90F6-4716 quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ông Lê Quang Y, ông Y cho bị cáo mượn xe nhưng không biết bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, nguyện vọng của ông Y tại cơ quan điều tra là xin lại xe máy để làm phương tiện sử dụng hàng ngày nên cần trả lại chiếc xe cho ông Y là phù hợp quy định của pháp luật.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
[7] Các tình tiết khác của vụ án:
Đối với người thanh niên khoảng 30 tuổi Lê Quang V khai bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an phường T xác minh nhưng không xác định được. Ngoài lời khai của V không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý đối với người đã bán ma túy cho bị cáo trong vụ án này.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ các Điều 106; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1/ Tuyên bố bị cáo Lê Quang V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Lê Quang V 30 ( ba mươi ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21 tháng 12 năm 2021.
2/ Xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong số 258/PC09-MT, mặt trước phong bì có ghi mẫu vật hoàn trả QT01.
Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen loại máy sử dụng phím bấm, điện thoại cũ đã qua sử dụng, số IMEI1: 353686082297523, số IMEI2: 35368082297531, Trả lại ông Lê Quang Y 01 xe máy biển kiểm soát 90F6- 4716, số khung: VTTVCH022TT093643, số máy: VTT1P52FMH093643, nhãn hiệu Honda α, xe cũ đã qua sử dụng.
Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 11/3/2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.
3/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Lê Quang V phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án,quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 34/2022/HS-ST
Số hiệu: | 34/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về