Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YK, TỈNH NINH B

BẢN ÁN 34/2021/HSST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23/06/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện YK, tỉnh Ninh B; xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 23/2021/TLST-HS ngày 31/05/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXXST-HS ngày 10/06/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân B sinh năm 1976; tại xã H, huyện YK, tỉnh Ninh B; hộ khẩu thường trú xóm Chùa, xã H, huyện YK, tỉnh Ninh B; chỗ ở hiện nay xóm 7, xã H, huyện YK, tỉnh Ninh B; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn hóa 9/12 dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Đình T và bà Bùi Thị L; vợ Phạm Thị Thanh T và có 02 con lớn nhất 18 tuổi nhỏ nhất 14 tuổi; tiền sự không; tiền án không; lịch sử bản thân năm 2002 bị Công an huyện YK xử phạt 100.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, năm 2014 bị Công an huyện YK xử phạt 500.000 đồng về hành vi xử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/04/2021 đến ngày 16/04/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh B cho đến nay; có mặt.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Xuân B là người sử dụng ma túy; trưa ngày 11/04/2021 B điều khiển xe mô tô biển số 35K1-436.99 đến khu vực xóm 5, xã N mua 01 gói Heroine được gói trong giấy bạc màu vàng với giá là 200.000 đồng, khi về đến xóm 20, xã H thì B dừng xe mô tô và mở gói giấy bạc màu vang sẻ một ít chất bột ra và gói vào giấy màu trắng rồi bỏ vào túi quần bên phải; số chất bột màu trắng còn lại trong gói giấy bạc màu vàng B bỏ vào túi áo ngực bên trái và tiếp tục điều khiển xe mô tô đi về xóm 4, xã H. Khoảng 11 giờ 40 phút khi B về đến xóm 4, xã H thì gắp tổ công tác của Công an huyện YK. B dừng xe đến gặp tổ công tác của Công an huyện YK xin tự thú và lấy từ trong túi áo ngực của B ra 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chất bột màu trắng và lấy trong túi quần ra một gói giấy màu trắng bên trong có chất bột màu trắng, B khai toàn bộ là Heroine B mua về để sử dụng.

Tổ công tác tiến hành lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú, thu giữ:

01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chất bột dạng cục màu trắng niêm phong ký hiệu M1; 01 gói bằng giấy màu trắng bên trong có chất bột dạng cục màu trắng niêm phong ký hiệu M2; 01 điện thoại Nokia; 02 xi lanh; 01 lọ nước cất Novocain; 01 xe mô tô nhãn hiệu RSX, màu đỏ-đen, biển số đăng ký 35K1436.99, số khung 3849LY010185, số máy JA52E0099451.

Cơ quan điều tra Công an huyện YK tiến hành mở niêm phong và cân xác định khối lượng vật chứng thu giữ của B: Gói ký hiệu M1 khối lượng cả bì là 0,19 gam, khối lượng bì là 0,07 gam, khối lượng chất bột dạng cục màu trắng là 0,12 gam, sau đó niêm phong lại ký hiệu M3. Gói ký hiệu M2 khối lượng cả bì là 0,61 gam, khối lượng bì là 0,60 gam, khối lượng chất bột dạng cục màu trắng là 0,01 gam, sau đó niêm phong lại ký hiệu M4.

Cơ quan điều tra Công an huyện YK gửi toàn bộ 02 gói M3 và M4 bên trong có chứa chất bột màu trắng thu giữ của B để giám định. Kết luận giám định số 301/KLGĐ-PC09-MT ngày 16/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh B kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M3 có khối lượng 0,1186 gam, M4 có khối lượng 0,0145 gam; tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong hai mẫu ký hiện M3, M4 là 0,1331 gam đều là ma túy, loại Heroine; Heroine là chất ma túy thuộc danh mục I, số thứ tự 9 Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Cáo trạng số 29/CT-VKS-YK ngày 31/05/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện YK truy tố bị cáo B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trình bày lời luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo B như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo B từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày 11/4/2021.

- Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

+) Tịch thu tiêu hủy: 0,0607 gam ma túy loại Heroine, vỏ bao gói của mẫu ký hiệu M4, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong, được niêm phong trong phong bì bên ngoài có ghi “Mẫu vật hoàn trả sau giám định số 301/KLGĐ-PC09-MT; 02 xi lanh, 01 lọ nước cất nhãn hiệu Novocain 3% được niêm phong ký hiệu B; vỏ gói giấy bạc màu vàng + vỏ phong bì thư niêm phong ký hiệu M1, vỏ gói giấy màu trắng + vỏ phong bì thư niêm phong ký hiệu M2 được niêm phong trong phong bì ký hiệu N.

+) Trả lại cho bị cáo B 01 điện thoại Nokia.

Bị cáo B khai: B mua Heroine để sử dụng cho bản thân; khi gặp tổ công tác của Công an huyện YK, do sợ bị phát hiện nên B đã tự thú và giao nộp toàn bộ 02 gói Heroine cho Công an. Nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, hành vi của bị cáo và vật chứng đã thu giữ, nên có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 11 giờ 40 ngày 11/04/2021 tại đường trục xã thuộc xóm 4, xã H. B tự lấy trong túi áo 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chất bột màu trắng và lấy trong túi quần 01 gói giấy màu trắng bên trong có chất bột màu trắng, B khai toàn bộ là Heroine B mua về sử dụng, để nộp cho tổ công tác của Công an huyện Yên Khanh. Theo kết luận giám định tổng khối lượng chất bột màu trắng thu giữ của B là 0,1331 gam đều là ma túy, loại Heroine.

Hành vi của bị cáo B là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về ma tuý, hành vi của bị cáo B đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[2] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo B không có tình tiết tăng nặng.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo tự thú, thành khẩn khai báo; theo quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện YK truy tố bị cáo B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện YK về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Từ những phân tích nêu trên, thấy rằng: Cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo; để cải tạo, giáo dục bị cáo sớm cai nghiện ma túy trở thành công dân tốt cho gia đình và xã hội, góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo biên bản xác minh thể hiện, bị cáo không có tài sản nên không phạt bổ sụng là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Vật chứng đã thu giữ gồm “0,1331 gam Heroine; 01 điện thoại Nokia; 02 xi lanh; 01 lọ nước cất Novocain 3%; 01 xe mô tô nhãn hiệu RSX, biển số đăng ký 35K1436.99 và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Phạm Thị Thanh Thúy”.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu RSX biển số 35K1436.99 và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Phạm Thị Thanh Thúy, quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Thúy, chị Thúy không biết B sử dụng vào việc phạm tội; nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Thúy là đúng pháp luật.

- Đối với 0,1331 gam ma túy, sau giám định Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh B chỉ hoàn lại 0,0607 gam, vỏ bao gói của mẫu ký hiệu M4, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 02 xi lanh; 01 lọ nước cất Novocain 3%; vỏ gói giấy bạc màu vàng + vỏ phong bì thư niêm phong ký hiệu M1, vỏ gói giấy màu trắng + vỏ phong bì thư niêm phong ký hiệu M2; tất cả tịch thu tiêu hủy.

- Đối với điện thoại Nokia là tài sản của B, tại phiên tòa B khai không sử dụng vào việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo B.

[8] Trong vụ án này theo B khai số tiền sử dụng mua ma túy là của anh Lượng và B mua ma túy của anh Lực; quá trình điều tra không chứng minh được anh Lượng và anh Lực có liên quan đến vụ án.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì; nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng pháp luật. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Bị cáo B bị xử có tội, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; các điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Xuân B 13 (mười ba) tháng tù; thời hạn phạt tù tính từ ngày tạm giữ 11/04/2021.

3. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy gồm: 0,0607 gam ma túy loại Heroine, vỏ bao gói của mẫu ký hiệu M4, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong, được niêm phong trong phong bì bên ngoài có ghi “Mẫu vật hoàn trả sau giám định số 301/KLGĐ-PC09-MT; 02 xi lanh, 01 lọ nước cất nhãn hiệu Novocain 3% được niêm phong ký hiệu B; vỏ gói giấy bạc màu vàng + vỏ phong bì thư niêm phong ký hiệu M1, vỏ gói giấy màu trắng + vỏ phong bì thư niêm phong ký hiệu M2 được niêm phong trong phong bì ký hiệu N.

- Trả lại cho bị cáo B 01 điện thoại Nokia được niêm phong trong phong bì; nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Tất cả vật chứng có đặc điểm tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/06/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện YK với Chi cục Thi hành án dân sự huyện YK.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Nguyễn Xuân B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo B có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Đều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2021/HSST

Số hiệu:34/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;