Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 29/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Đoàn Quốc C, sinh năm 1989 tại Quảng Nam; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 11, thôn T, xã D, huyện D, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Đình K (đã chết) và bà Nguyễn Thị B (sống); gia đình có 05 người con, bị cáo là thứ hai; vợ Lê Thị S và 02 con( lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2012); tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/3/2021 đến ngày 19/ 3/2021 chuyển tạm gian cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Nguyễn Anh Tiến Đ, sinh năm 1997; địa chỉ: 116 H, thị trấn N, huyện D, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị Thanh Th, sinh năm 2000; địa chỉ: Thôn P, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

- Ông Lê Chỉ H, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn V, xã D, huyện D, tỉnh Quảng Nam;

vắng mặt.

- Ông Lê Viết T, sinh năm 1999; địa chỉ: Thôn V, xã D, huyện D, tỉnh Quảng Nam;

vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 15 phút, ngày 10/3/2021, Trạm Cảnh sát giao thông Cửa ô H, huyện H, TP. Đà Nẵng phối hợp với Công an huyện H tiến hành dừng phương tiện kiểm tra trên tuyến đường quốc lộ 14B, thuộc thôn C, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. Quá trình kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện xe ô tô biển kiểm soát 92A- AAA.AA do Lê Viết T điều khiển chở theo Đoàn Quốc C, Lê Chỉ H, Nguyễn Thị Thanh Th chạy quá tốc độ nên dừng phương tiện lại để kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện trong áo khoác màu nâu để ở trên xe ô tô biển kiểm soát 92A- AAA.AA của Đoàn Quốc C tàng trữ 08 viên nén màu xanh, theo khai nhận của C thì 08 viên nén này là ma túy dạng thuốc lắc nên Công an huyện H đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra, xác định: Vào ngày 07/3/2021, Đoàn Quốc C vào một quán Bar ở thành phố T, tỉnh Quảng Nam (không nhớ rõ tên quán và địa chỉ) chơi và mua của một thanh niên trong quán Bar (không rõ lai lịch) 08 viên ma túy tổng hợp dạng thuốc lắc với giá 2.400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy thì C cất giấu vào áo khoác da màu nâu của mình nhằm mục đích để sử dụng.

Đến ngày 10/3/2021, C mang áo khoác có cất giấu 08 viên ma túy này rồi cùng với Lê Viết T, Lê Chỉ H, Nguyễn Thị Thanh Th đi trên xe ô tô biển kiểm soát 92A- AAA.AA ra TP.Đà Nẵng chơi. Khi xe ô tô do T điều khiển đi đến địa phận thuộc thôn C, xã H, huyện H, TP.Đà Nẵng thì bị lực lượng Công an dừng xe kiểm tra, phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Tang vật tạm giữ:

- 01 gói ni lông bên trong có chứa 08 viên nén màu xanh ký hiệu A;

- 01 áo khoác da màu nâu;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen;

- 01 xe ô tô biển kiểm soát 92A- AAA.AA.

Tại kết luận giám định số: 68/GĐ-MT, ngày 16/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: 08 viên nén màu xanh niêm phong ký hiệu A gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng mẫu A là 3,568 gam.

Bản cáo trạng số 31/CT-VKSNDHV ngày 21/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Đoàn Quốc C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Đoàn Quốc C từ 15 tháng đến 21 tháng tù.

Ngoài ra, còn đề cập đường lối xử lý về tang vật, vật chứng và tiền án phí.

Bị cáo Đoàn Quốc C nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về xác định tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã truy tố; lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang. Có đủ cơ sở kết luận: Đoàn Quốc C là người nghiện ma túy, ngày 07/3/2021, C mua ma túy của người khác với số tiền 2.400.000 đồng với mục đích để dụng. Đến ngày 10/3/2021, C mang theo ma túy mua được cất giấu vào áo khoác rồi cùng với Lê Viết T, Lê Chỉ H, Nguyễn Thị Thanh Th điều khiển xe ô tô chạy ra TP.Đà Nẵng chơi, khi xe ô tô đi đến khu vực thuộc thôn C, xã H, huyện H, TP.Đà Nẵng thì bị lực lượng Công an huyện H kiểm tra hành chính phát hiện và bắt quả tang. Tang vật thu giữ khi bắt quả tang là 08 viên ma túy loại MDMA có tổng khối lượng: 3,568 gam. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định hành vi của bị cáo Đoàn Quốc C đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ, hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Đoàn Quốc C là đối tượng nghiện ma túy nên nhận thức rõ tác hại của ma túy là chất gây nghiện, ma túy không chỉ gây tổn hại sức khoẻ và tinh thần của con người mà còn là một trong những nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, thế nhưng bị cáo C bất chấp pháp luật mua 2.400.000 đồng ma túy gồm 08 viên ma túy loại MDMA có tổng khối lượng: 3,568 gam và tàng trữ trái phép số ma túy này trong túi áo khoác để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện thì bị bắt quả tang. Hành vi phạm tội của bị cáo C là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, đi ngược lại với chủ trương của Đảng và Nhà nước trong công tác phòng chống tội phạm về ma túy. Vì vậy, cần phải xử bị cáo C mức án nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo C không có Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo C không có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; bị cáo C là người bị hại với tỉ lệ thương tích 47% trong vụ án hình sự khác do Công an huyện D, tỉnh Quảng Nam khởi tố; bị cáo có ông bà nội, cô ruột là những người có công cách mạng được tặng thưởng Huân chương, Huy chương các loại; cha bị cáo tham gia bộ đội tại chiến trường Campuchia nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[4] Về quan điểm luận tội cũng như đề nghị mức hình phạt của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe ô tô biển kiểm soát 92A- AAA.AA do Nguyễn Anh Tiến Đ đứng tên chủ sở hữu. Ngày 07/3/2021, Đ cho Đoàn Quốc C thuê xe ô tô. Quá trình điều tra xác định anh Đ không biết việc C sử dụng xe ô tô này vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H không đề cập xử lý mà trả lại cho anh Đ là có căn cứ. Sau khi nhận lại xe ô tô nêu trên, anh Đ không có yêu cầu hay khiếu nại gì nên không xét.

- Đối với các tang tài vật còn lại gồm: 2,665 gam ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao được niêm phong có ba dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng, 01 áo khoác màu nâu. Xét đây là các tang vật vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại Iphone màu đen, xét đây là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.

Đối với nguồn gốc ma túy mà Đoàn Quốc C mua của một đối tượng tại một quán Bar ở thành phố T, tỉnh Quảng Nam. Qua điều tra xác định C không biết họ tên, lai lịch nhân dạng cụ thể đối với người này và địa chỉ quán Bar nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để tiến hành xác minh, xử lý nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét.

Đối với Lê Viết T, Lê Chỉ H, Nguyễn Thị Thanh Th là những người đi cùng xe ô tô biển kiểm soát 92A- AAA.AA với Đoàn Quốc C vào ngày 10/3/2021. Quá trình điều tra xác định: T, H và Th không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của C nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có cơ sở nên không xét.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

I. Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Quốc C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đoàn Quốc C 18( Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10 tháng 3 năm 2021.

II. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 2,665 gam ma túy hoàn lại sau giám định và 01 áo khoác màu nâu.

- Trả lại cho bị cáo Đoàn Quốc C 01 điện thoại Iphone màu đen ( có chữ ký của bị cáo Đoàn Quốc C và Điều tra viên).

(Tất cả vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H, thành phố Đà Nẵng theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 23/6/2021).

III. Về án phí: Căn cứ các điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đoàn Quốc C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

IV. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2021/HS-ST

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;