Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 333/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 333/2021/HSST NGÀY 09/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 12 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 349/2021/HSST ngày 19 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 355/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Đỗ Hải N – sinh năm: 1976; Hộ khẩu thường trú: Số 210 tổ 9, phường Q, quận Cầu Giấy, Hà Nội; Chỗ ở: Số 104 ngõ 80 phố K, phường T, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 07/12; Con ông: Đỗ Thanh P (Đã chết); Con bà: Phạm Thị T; Vợ: Vũ Thị Kim L;

- Nhân thân:

+ Năm 1998: Tòa án nhân dân huyện Hải An, TP. Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân và 30 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt 42 tháng tù. (Đã xóa án tích)

+ Năm 2001: Tòa án nhân dân quận Hà Đông, TP. Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. (Đã xóa án tích)

- Tiền án:

+ Năm 2019: Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, TP. Hà Nội xử phạt 01 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. (Chưa xóa án tích, ra trại ngày 29/12/2020) Danh chỉ bản số 355 lập ngày 05/7/2021 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp. Bắt quả tang ngày 26/6/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17h25’ ngày 26/06/2021, tại khu vực sân chung cư N3 – Nguyễn Công Trứ - P. Phố Huế, Hai Bà Trưng, Hà Nội, tổ công tác Công an phường Phố Huế đang làm nhiệm vụ phát hiện Đỗ Hải N ngồi trên xe máy Honda SH Mode BKS: 29D2 – 523.11 đang đứng cùng một người đàn ông có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Khi nhìn thấy tổ công tác, người đàn ông trên đã bỏ chạy và đánh rơi tại hiện trường 550.000 đồng tiền mặt. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện từ bên trong túi quần phía trước bên phải N đang mặc ra 01 túi nilon màu trắng kích thước 2x3cm bên trong chứa tinh thể màu trắng. Tại chỗ N khai nhận số tinh thể màu trắng trên là ma túy đá N mua về để sử dụng. Tổ công tác đã niêm phong tang vật, đưa N cùng vật chứng về trụ sở để làm rõ. Ngoài ra tổ công tác thu giữ của Đỗ Hải N 01 chiếc điện thoại di động kiểu dáng Nokia màu đen; 01 xe máy Honda SH Mode màu xám BKS: 29D2 – 523.11, ở khu vực trước đầu xe Honda SH Mode BKS: 29D2 – 523.11 phát hiện số tiền 550.000 đồng.

Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định trưng cầu giám định số ma túy thu giữ của Đỗ Hải N. Tại bản kết luận giám định số 5303/KLGĐ-PC09 ngày 02/07/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,581 gam.” Tại cơ quan điều tra bị can khai nhận: Khoảng 16h50’ ngày 26/06/2021, N sử dụng số điện thoại 0964933871 nhận được cuộc gọi từ số 0949408592 của một người đàn ông là bạn xã hội của N (Không rõ nhân thân lai lịch) nhờ mua 500.000 đồng tiền ma túy đá mang đến khu vực sân chung cư N3, phố Nguyễn Công Trứ, P. Phố Huế, Hai Bà Trưng, Hà Nội và sẽ trả công cho N 50.000 đồng. N không đồng ý và nói với người đàn ông trên là không giúp được. Đến khoảng 17h00’ cùng ngày, do có nhu cầu sử dụng ma túy, N điều khiển xe máy Honda SH Mode BKS: 29D2 – 523.11 đến khu vực cây xăng Võ Thị Sáu – P. Thanh Nhàn – Hai Bà Trưng – Hà Nội gặp và mua của 01 người đàn ông không quen biết 400.000 đồng tiền ma túy đá dưới dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nilon màu trắng. N cất giấu số ma túy vừa mua được vào trong túi quần phía trước bên phải rồi tiếp tục điều khiển xe máy về khu vực phố Nguyễn Công Trứ - Hai Bà Trưng – Hà Nội để đi công việc riêng. Do thấy đến gần khu vực sân chung cư N3 Nguyễn Công Trứ nên N đã gọi điện hẹn gặp người đàn ông trên với mục đích nói N không bán ma túy và không giúp được. Khoảng 17h25’ cùng ngày, khi N đang gặp người đàn ông trên ở khu vực sân chung cư tòa nhà N3 Nguyễn Công Trứ, P. Phố Huế, Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bị tổ công tác kiểm tra, bắt giữ như trên.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Đỗ Hải N ngày 26/06/2021, quá trình điều tra đã xác định vị trí N mua ma túy của người đàn ông trên tại khu vực cây xăng Võ Thị Sáu – P. Thanh Nhàn – Hai Bà Trưng – Hà Nội. Không xác định được người đàn ông đã bán cho N ma túy. Do vậy cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý đối với người đàn ông trên.

Đối với người đàn ông nhờ N mua hộ ma túy sử dụng số điện thoại 0949408592. N khai là bạn ngoài xã hội không rõ nhân thân, lai lịch, đây là lần đầu tiên người đàn ông trên nhờ N mua ma túy. Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng đã tiến hành thu giữ điện tín đối với số điện thoại 0949408592 kết quả xác định chủ thuê bao là Nguyễn Thái D (SN: 1988, HKTT: Tổ 24 Cụm 4, phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, TP. Hà Nội). Tại cơ quan điều tra, anh D cho biết bản thân là chủ cửa hàng kinh doanh sim số điện thoại tại số 25 đường Q, phường V, Cầu GIấy, TP. Hà Nội, anh D sử dụng thông tin cá nhân của mình để đăng ký số thuê bao 0949408592 và bán lại cho khách vãng lai. Hiện nay anh D không có thông tin về khách hàng mua số thuê bao trên, không sử dụng số điện thoại 0949408592 và không quen biết ai là Đỗ Hải N. Do vậy cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng không có căn cứ, xác minh, xử lý đối với người đàn ông hỏi mua ma túy của N.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH Mode màu xám mang BKS: 29D2 – 523.11, SK: 655269, SM: 0101103, quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là chị Vũ Thị Kim L (SN: 1978, nơi cư trú, số 53 Tổ 5, phường V, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội) là vợ của Đỗ Hải N. Chị L khai báo ngày 26/06/2021, N mượn chiếc xe máy của chị đi đâu làm gì không nói cho chị biết phù hợp với lời khai của N tại cơ quan điều tra. Ngày 30/09/2021, Cơ quan CSĐT – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả lại chiếc xe máy trên cho chị Vũ Thị Kim L. Chị L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.

Đối với số tiền 550.000 đồng là số tiền người đàn ông hỏi mua ma túy của N bỏ chạy đánh rơi tại hiện trường.

Đối với chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Nokia màu đen, số IMEI: 355259464489502 là tài sản cá nhân của Đỗ Hải N, không liên quan đến hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của N.

Tại Bản cáo trạng số 316/CT/VKS-HS ngày 16 tháng 11 năm 2021 đã truy tố bị cáo Đỗ Hải N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan công an, công nhận nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Đỗ Hải N như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng. Sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đỗ Hải N với mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong có chứa 0,581 gam ma túy loại Methamphetamine bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Đỗ Hải N.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 550.000 đồng của đối tượng hỏi mua ma túy của N đánh rơi tại hiện trường.

- Trả lại bị cáo Đỗ Hải N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng số IMEI: 355259464489502 là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP. Hà Nội và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 17h25’ ngày 26/6/2021, tại khu vực sân chung cư N3 Nguyễn Công Trứ, phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, Đỗ Hải N có hành vi tàng trữ trái phép 0,581 gam ma túy loại Methamphetamine.

Hành vi nêu trên của bị cáo Đỗ Hải N đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

“Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) … Methamphetamine …….có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;"

Do đó viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm an ninh trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm huỷ hoại sức khoẻ con người, làm xói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán ma tuý và ma tuý cũng là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.

[3]. Xét nhân thân của bị cáo: Năm 1998 Tòa án nhân dân huyện Hải An, TP. Hải Phòng xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân và 30 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt 42 tháng tù đã xóa án tích; Năm 2001 Tòa án nhân dân quận Hà Đông, TP. Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được xóa án tích. Bị cáo còn có 01 tiền án năm 2019 bị Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt 01 năm 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, do vậy Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 (Năm triệu) đồng đến 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng”. Tuy nhiên, xét bị cáo Đỗ Hải N không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5].Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong có chứa 0,581 gam ma túy loại Methamphetamine bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Đỗ Hải N.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 550.000 đồng của đối tượng hỏi mua ma túy của bị cáo đánh rơi tại hiện trường.

- Trả lại bị cáo Đỗ Hải N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng số IMEI: 355259464489502 là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

[6]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố : Bị cáo Đỗ Hải N phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Đỗ Hải N 22 (Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt quả tang ngày 26/6/2021.

2. Về hình phạt bổ sung : Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong có chứa 0,581 gam ma túy loại Methamphetamine bên ngoài có chữ ký của giám định viên và bị cáo Đỗ Hải N.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 550.000 đồng của đối tượng hỏi mua ma túy của N đánh rơi tại hiện trường.

- Trả lại bị cáo Đỗ Hải N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng số IMEI: 355259464489502.

Các tang vật trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 12 tháng 11 năm 2021 (TV: 46/22) giữa Công an quận Hai Bà Trưng và Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 333/2021/HSST

Số hiệu:333/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;