Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 32/2022/HS-ST NGÀY 08/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2022/TLST- HS ngày 13 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2022/QĐXXST-HS, ngày 27 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Thào A S, sinh năm 1968 tại huyện Bắc Yên , tỉnh Sơn La Nơi ĐKHKTT: Bản C, xã T, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thào A S và bà Giàng Thị M (Đều đã chết); bị cáo có vợ và 05 con; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 tiền án. Ngày 15/12/2006 bị TAND tỉnh Sơn La xử phạt 20 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm điểm h Khoản 4 Điều 194 BLHS 1999. Đến ngày 30/8/2019 thì chấp hành xong. Tính đến ngày 06/01/2022 chưa được xóa án tích;

nhân thân: Xấu Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/01/2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút, ngày 06 tháng 01 năm 2022 tại bản Co Tông, xã Tú Nang, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La tổ công tác Công an xã Lóng Phiêng phối hợp với Công an xã Tú Nang phát hiện Thào A S đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu xanh bên trong có 49 viên nén hình tròn màu hồng do Thào A S tự giác lấy trong túi quần bên phải đang mặc trên người giao nộp. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và dẫn giải Thào A S về công an huyện Yên Châu để giải quyết theo quy định.

Ngày 07 tháng 01 năm 2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La phối hợp với phòng PC09 công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng vật chứng thu giữ của Thào A S và trích rút mẫu để giám định. Kết quả cân tịnh 49 viên nén màu hồng trên bề mặt có chữ WY có khối lượng 4,73 gam; trích 05 viên có khối lượng 0,48 gam kí hiệu S gửi giám định chất ma túy; còn lại 44 viên có khối lượng là 4,25 gam kí hiệu S1 nhập kho vật chứng.

Tại kết luận giám định số: 233 ngày 10/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu S là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu giám định là 0,48 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 4,73 gam, loại Methamphetamine” Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Tháo A S khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 06/01/2022, S mang theo số tiền 500.000 đồng đi bộ từ nhà tại bản C, xã T, huyện Yên Châu theo đường dân sinh đến bản X, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến khu vực giáp ranh giữa bản C, xã T và bản X, xã Chiềng Khừa, Sồng gặp một người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 40 tuổi đang đi bộ trên đường dân sinh. Qua trao đổi, được biết người đàn ông này có ma túy bán, S thỏa thuận mua được 01 (Một) túi nilon màu xanh bên trong có 49 (Bốn mươi chín) viên Hồng phiến với giá tiền 500.000 đồng. Mua được ma túy, S cất giấu trong túi quần bên phải đang mặc rồi đi bộ về theo đường cũ. Khi S đi đến địa phận bản Co Tông, xã Tú Nang, huyện Yên Châu thị bị tổ công tác Công an xã Lóng Phiêng phối hợp với Công an xã Tú Nang kiểm tra, S tự giác lấy gói ma túy trong túi quần bên phải đang mặc trên người giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Cáo trạng số 27/CT – VKSYC, ngày 12 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La để xét xử bị cáo Thào A S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Thào S từ 4 năm 06 tháng đến 05 năm tù, đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền, miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư do Công an tỉnh Sơn La phát hành, mặt trước ghi “Vật chứng vụ:

Tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 06/01/2022 tại bản Co Tông, xã Tú Nang, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Niêm phong hồi 09 giờ 40 ngày 07 tháng 01 năm 2022 tại Phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La. Gồm có: 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu, 01 túi nilon màu xanh, Mẫu S1 = 4,25g”.

Bị cáo nhất trí với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt không có ý kiến gì bổ sung thêm.

Bị cáo S nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Thào A S khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp tàng trữ 4,73 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm được quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Trong vụ án này tổng khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 4,73gam; ngoài mục đích sử dụng ra bị cáo không còn mục đích nào khác. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm tù là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi mà bị cáo đã thực hiện [3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ tuy không lớn nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm hủy hoại sức khỏe cộng đồng, nếu để lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là tái phạm. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử một lần về tội về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm điểm h Khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999, xử phạt 20 năm tù. Sau khi chấp hành xong hình phạt trở về địa phương bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội dẫn đến phải đứng trước phiên tòa ngày hôm nay. Do đó khi lượng hình đối với bị cáo cần có một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Đối với người đã trực tiếp bán ma túy cho bị cáo HĐXX xét thấy hành vi mua bán đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý hình sự, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên không có căn cứ để xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

[7] Vật chứng thu giữ của vụ án: Vật chứng còn lại: 4,25g gam Methamphetamine, 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu, 01 túi nilon màu xanh là vật nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; nhưng xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, tài sản không có gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo được miễm án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

1. Tuyên bố bị cáo Thào A S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Thào A S 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 06/01/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì giấy niêm phong mặt trước ghi “Vật chứng vụ tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngay 06/01/2022 tại bản Co Tông, xã Tú Nang, huyện Yên Châu; niêm phong hồi 09 giờ 40 phút ngày 07/01/2022 tại phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La bên trong gồm có: 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu, 01 túi nilon màu xanh, Mẫu S1 = 4,25 gam Methamphetamine”. Vật chứng nêu trên được mô tả theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 13/5/2022 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Châu và Công an huyện Yên Châu.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 08/6/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2022/HS-ST

Số hiệu:32/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;