Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 32/2022/HS-ST NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 29/2022/TLST- HS ngày 30 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Lâm Hồng H, sinh năm 1982 tại xã Gi, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Xóm 9, xã Gi, xã Gi, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; con ông Lâm Hồng S và bà Đinh Thị L (đã chết); Vợ: Phạm Thị T, sinh năm 1984; Con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;

- Về nhân thân:

+ Ngày 11/2/2015, Lâm Hồng H bị Công an xã Gi ra quyết định xử phạt 500.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Ngày 04/5/2015, Lâm Hồng H bị Tòa án nhân dân xã Gi ra quyết định Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng.

+ Ngày 11/9/2020, Lâm Hông H bị Công an xã Gi, xã Gi ra quyết định xử phạt Cảnh cáo về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Ngày 21/10/2020, Lầm Hồng H bị Công an xã Gi, xã Gi xử phạt 750.000 đồng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/12/2021 đến ngày 26/12/2021 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Duy H – Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý NH nước tỉnh Ninh Bình. (có mặt)

* Người làm chứng: Anh Đinh Văn Tr, sinh năm 1978; Anh Đỗ Văn Q, sinh năm 1983;

Những người làm chứng vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lâm Hồng Hlà người sử dụng ma túy từ năm 2014. Khoảng 9 giờ 45 phút ngày 17/12/2021, H từ nH đi nhờ xe của một người đi đường không quen biết đến khu vực đường liên thôn thuộc thôn 8, xã Gi, huyện N, tỉnh Ninh Bình để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Đến nơi, H xuống xe đi bộ một đoạn thì nhìn thấy một người nam giới không quen biết trông giống người nghiện ma túy nên đi lại gần và hỏi “Anh có Hng không bán cho em hai trăm”, người nam giới hiểu ý H hỏi mua Heroine nên trả lời “Có, đưa tiền đây”. Lâm Hồng H đưa cho người nam giới số tiền 200.000đồng, người nam giới cầm tiền và đưa lại cho H 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng. H mở ra kiểm tra thấy bên trong có chất bột dạng cục màu trắng xác định đúng là ma túy loại Heroine nên H gói lại và cầm trên tay trái đi tìm nơi sử dụng, còn người nam giới bán ma túy cho H cũng đi luôn. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày khi Lâm Hồng H đi bộ trên đường đê thuộc địa phận thôn 9,xã Gi, huyện N thì gặp Tổ công tác Công anxã Gi, huyện N đang làm nhiệm vụ đi đến yêu cầu H đứng lại để kiểm tra. H định bỏ chạy thì bị Công anxã Gi giữ lại. Lâm Hồng H biết không thể che giấu đượchành vi cất giấu trái phép chất ma túy nên đã tự giác đưa 01 gói ma túy giao nộp cho Tổ công tác và khai nhận đó là 01 gói ma túy H cất giấu để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiếnhành kiểm tra, thu giữ và niêm phong 01 gói nhỏ do H giao nộp vào 01 phong bì được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, Tổ công tác không thu giữ tài sản, đồ vật gì khác.

Cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng chứa trong 01 gói nhỏ thu giữ của Lâm Hồng H có khối lượng là 0,14gam gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình giám định về khối lượng và loại chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 48/KLGĐ-PC09-MT ngày 24/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định kí hiệu M có khối lượng 0,1363 (Không phẩy một nghìn ba trăm sáu mươi ba)gam là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định kí hiệu M có khối lượng 0,0734gam, là ma túy, loại Heroine. Toàn bộ vỏ bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong một phong bì “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 48/KLGĐ- PC09- MT, cùng thông tin về vụ việc và vật chứng.

Việc hỏi cung bị can, Cơ quan điều tra đã tiếnhành ghi hình có âm thanh đối với Lâm Hồng H, được lữu trữ trong trong 01 đĩa DVD và được niêm phong trong 01 phong bì; 01 phòng bì niêm phong bên trong là vỏ gói và phong bì niêm phong ban đầu được chuyển theo hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 35/CT - VKSNQ ngày 29/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Lâm Hồng H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộhành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát huyện N tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả dohành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lâm Hồng H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý“.

* Đề nghị áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đề nghị: xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 21 tháng tù. Thời hạn chấphành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 17/12/2021.

- Hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,0734gam, là ma túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong cũ.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Ý kiến người bào chữa: Bị cáo là người nhiễm HIV, vợ bị cáo cũng bị nhiễm HIV nên không sinh con, hoàn cảnh khó khăn. Bản thân bị cáo khai báo tHnh khẩn, chấphành các quyết định của cơ quan tiếnhành tố tụng. Vì vậy đề nghị HĐXX áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự hưởng mức thấp nhất của khung hình phạt. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo biết lỗi về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiếnhành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 17/12/2021, tại đường đê thuộc địa phận thôn 9,xã Gi, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Tổ công Công anxã Gi, huyện N bắt quả tang Lâm Hồng H cóhành vi cất giấu trái phép 0,1363(Không phẩy một nghìn ba trăm sáu mươi ba) gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Như vậy,hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu tHnh tội tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………………………………………….

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật cần chấp nhận.

[3].hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của NH nước đối với các chất ma túy, tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, bởi lẽ: Ma túy là một trong những đại họa mà toàn nhân loại phải đối mặt và là vấn đề đang còn nhức nhối, ám ảnh của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nhận thức sâu sắc về tác hại của ma túy nên Đảng và NH nước ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống ma túy cũng như quyết tâm loại trừ các tệ nạn về ma túy ra khỏi đời sống xã hội. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau nên các tội phạm về ma túy vẫn chưa giảm mà lại có chiều hướng gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp hơn. Để góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống xã hội ngoài công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng thì các cơ quan tiếnhành tố tụng ở địa phương như: Công an, Viện kiểm sát và Tòa án đã tăng cường, phối hợp chặt chẽ công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm và tệ nạn ma túy, kiên quyết triệt xóa các tụ điểm phức tạp, không để gây bức xúc trong nhân dân. Vận động nhân dân phát hiện tố giác tội phạm về ma túy nhằm góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm. Từ đó nêu cao tinh thần cảnh giác, phòng ngừa tội phạm trên địa bàn dân cư để từng bước đẩy lùi và loại trừ tội phạm nguy hiểm này. Do đó cần xử phạt bị cáo nghiêm minh trước pháp luật bằng bản án nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục chính bản thân bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Về nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội tHnh khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

Từ những phân tích trên, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội 1 thời gian dài mới có tác dụng giáo dục cải tại bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Trong vụ án này, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán Heroine cho Lâm Hồng H nên không đủ căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo mua bán ma túy nhằm mục đích sử dụng, không có mục đích kiếm lời vì vậy không cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng và áp dụng các biện pháp tư pháp khác:

Đối với 0,0734 gam được đựng trong 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật là mẫu vật hoàn trả số 48KLGĐ- PC09- MT ngày 24/12/2021, xét đây là vật NH nước cấm sử dụng, lưuhành cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, sự.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lâm Hồng H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

* Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình Xử phạt bị cáo Lâm Hồng H 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 17/12/2021.

2.Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy:0,0734 gam còn lại trong mẫu M là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 48KLGĐ- PC09- MT ngày 24/12/2021 theo quy định của pháp luật.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện N và Chi cục Thihành án dân sự huyện N)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
  • Tên bản án:
    Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2022/HS-ST
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    32/2022/HS-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    27/04/2022
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2022/HS-ST

Số hiệu:32/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;