Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2022/HS-ST

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 05/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 38/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2022/HSST-QĐ ngày 24 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Bùi Văn M., sinh ngày 07/10/1980 tại huyện S, tỉnh Tuyên Quang; Nơi cư trú: Thôn B, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Bùi Kim N, sinh năm 1956 và bà Trần Thị S, sinh năm 1957; Vợ, con: Chưa có; Anh chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là con út trong gia đình. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 88/2010/HSST ngày 14/12/2010 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Bùi Văn M. 06 tháng cải tạo không giam giữ, án phí HSST 200.000 đồng, phạt tiền 3.000.000 đồng về tội Đánh bạc, ngày 31/10/2016 đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bản án số 122/2013/HSST ngày 15/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Bùi Văn M. 02 năm 03 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, án phí HSST 200.000 đồng, ngày 27/10/2015 đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 14/12/2021, bị cáo Bùi Văn M. đi xe ôm của một người đàn ông không xác định được tên tuổi địa chỉ đến khu vực dốc L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây bị cáo mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ) 01 gói ma túy bên ngoài gói bằng giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột vón cục mầu trắng ngà với số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Sau đó bị cáo đi xe ôm về nhà, đến buổi tối cùng ngày bị cáo sử dụng một ít ma túy vừa mua được bằng hình thức đốt hít vào cơ thể, số ma túy còn lại bị cáo cất giấu vào túi quần bên trái đang mặc trên người. Khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 15/12/2021, bị cáo đang ở nhà thì tổ công tác Công an xã S, huyện S. đến nhà mời bị cáo về trụ sở Công an xã S (Địa chỉ: Thôn B., xã S, huyện S., tỉnh Tuyên Quang) làm việc do nghi ngờ bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo đã tự giác giao nộp gói ma túy trên. Hồi 09 giờ cùng ngày, Công an xã S đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo Bùi Văn M. về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tiến hành xét tìm nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể bị cáo Bùi Văn M., kết quả (+) dương tính với chất ma túy (Heroine).

Tại Kết luận giám định số 10/GĐKTHS ngày 18/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà trong 01 gói thu giữ của Bùi Văn M. ngày 15/12/2021 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,225g (không phẩy hai hai lăm) gam.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 35/CT-VKSSD ngày 09 tháng 3 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Bùi Văn M. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Bùi Văn M. và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn M. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Bùi Văn M. từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa ma túy là tang vật của vụ án.

Ngoài ra, đại diện viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn M. đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng truy tố; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì, nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Khi nói lời sau cùng bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và nội dung cáo trạng truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 09 giờ ngày 15/12/2021, tại thôn B., xã S, huyện S., tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Bùi Văn M. đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,225g (không phẩy hai hai lăm gam) Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bị cáo Bùi Văn M. là người có năng lực hành vi hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, đây là lỗi cố ý trực tiếp. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ chấp nhận.

[2]. Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Người phạm tội thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3]. Về mức án đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Xong, khi lượng hình HĐXX thấy rằng tuy bị cáo có nhân thân xấu nhưng bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ các bản án và đã được xóa án tích; khối lượng ma túy tàng trữ không lớn; quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải cần áp dụng cho bị cáo để lên mức án cho phù hợp.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo Bùi Văn M. không có tài sản gì có giá trị, bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ của bị cáo 0,225 gam (Không phẩy hai hai lăm gam) Heroine. Sau khi lấy đi giám định số còn lại cùng bao bì được niêm phong trong một phong bì có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và chữ ký của bị cáo. Đây là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[6]. Về các vấn đề khác:

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Bùi Văn M., Công an huyện Sơn Dương đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 18 ngày 13/01/2022 bằng hình thức phạt tiền, số tiền phạt 750.000 đồng.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Minh tại khu vực dốc L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo Bùi Văn M. phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) và được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn M. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn M. 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (15/12/2021).

2. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong có chứa Heroine, ngoài bì có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và chữ ký của bị cáo là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Sơn Dương với Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn Dương ngày 15/3/2022).

3. Căn cứ vào Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Bị cáo Bùi Văn M. phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2022/HS-ST

Số hiệu:31/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;