TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 31/2022/HSST NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 18/2022/HSST ngày 14 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/HSST ngày 4 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Thanh T, sinh năm 1989; Nơi sinh: Hòa Bình; Giới tính: Nam Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: xóm C, xã T, huyện K, tỉnh Hòa Bình Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Sơn Đ, Con bà: Bùi Thị K; Có vợ là: Đinh Thị Th và 02 con; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/12/2021 đến nay, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, có mặt tại phiên tòa.
* Người chứng kiến:
Ông Trịnh Văn Ph, sinh năm 1967
Nơi cư trú: tổ 13, phường Đ, thành phố H, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 7 giờ 30 phút ngày 18/12/2021, Nguyễn Thanh T điều khiển xe mô tô BKS 19H9- 3164 đi từ nhà tại xóm C, xã T, huyện K, tỉnh Hòa Bình lên thành phố H để mua ma túy sử dụng. Khi đi đến khu vực Trung tâm phòng trống bệnh tật HIV/AIDS thuộc tổ 9, phường Q, thành phố H, tỉnh Hòa Bình thì bị cáo gặp một người phụ nữ không quen biết, qua trao đổi T mua được của người này 01 gói ma túy giá 200.000đ. Sau khi mua được ma túy T cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe đi về hướng cầu Hòa Bình 2, khi đi đến khu vực tổ 11, phường Đ, thành phố H, tỉnh Hòa Bình thì bị tổ công tác Công an phường Đ, thành phố H phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.
Tại Bản kết luận giám định số 361/KLGĐ-CAT- PC 09 ngày 24/12/2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: “Chất bột dạng cục màu trắng, hồng trong gói giấy trong phong bì niêm phong ghi tên Nguyễn Thanh T gửi giám định có khối lượng 0,19gam là ma túy” loại Heroine và methaphetamine.
Bản cáo trạng số: 27/CT-VKS-TP ngày 14/03/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình truy tố Nguyễn Thanh T về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.
Kết thúc quá trình tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định truy tố; Về hình phạt: đề nghị HĐXX áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51,38,47 BLHS, Điều 106 BLTTHS xử phạt: Nguyễn Thanh T mức án từ 15 đến 18 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tuyên xuất hủy số ma túy là vật chứng vụ án được hoàn lại sau khi trích mẫu giám định.
Đối với chiếc xe mô tô BKS 19H9-3164 bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy. Do chưa xác định được nguồn gốc, Cơ quan điều tra lưu kho vật chứng để xác minh làm rõ và xử lý theo quy định, nên không đề cập.
Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136 BLTTHS, Nghị Quyết 326/2016/ UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo trình bày lời bào chữa, thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, về hình phạt đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi và Quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì. Do vậy hành vi và Quyết định tố tụng trên là hợp pháp.
[2] Về căn cứ buộc tội, gỡ tội, tội danh và điều luật áp dụng: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Thanh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, cụ thể khoảng 7 giờ 30 phút ngày 18/12/2021, Nguyễn Thanh T điều khiển xe mô tô BKS 19H9 - 3164 đi từ nhà tại xóm C, xã T, huyện K, tỉnh Hòa Bình lên thành phố H để mua ma túy sử dụng. Khi đi đến khu vực Trung tâm phòng trống bệnh tật HIV/AIDS thuộc tổ 9, phường Q, thành phố H, tỉnh Hòa Bình thì bị cáo gặp một người phụ nữ không quen biết, qua trao đổi T mua được của người này 01 gói ma túy giá 200.000đ, mua được ma túy bị cáo cầm trong lòng bàn tay trái và điều khiển xe mô tô đi về hướng cầu Hòa Bình 2, khi đến khu vực tổ 11, phường Đ, thành phố H thì bị bắt quả tang, ngày ngoài mục đích mua ma túy để sử dụng, bị cáo không có mục đích nào khác, lời khai của bị cáo phù hợp với hành vi khách quan vụ án, phù hợp lời khai người chứng kiến, vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập.
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã thu thập, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. HĐXX đủ cơ sở kết luận: Nguyễn Thanh T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.
Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
Nguyễn Thanh T là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, xong do cần ma túy sử dụng, coi thường pháp luật, bị cáo vẫn cố ý thực hiện dẫn đến phạm tội.
Hành vi bị cáo gây ra là vi phạm pháp luật, xâm hại đến chính sách quản lý chất ma túy của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội trên địa bàn, mặt khác tội phạm về ma túy còn là nguồn gốc phát sinh nhiều loại tội phạm khác, do đó cần xử lý nghiêm minh, có mức hình phạt tương xứng mới đảm bảo tác dụng giáo dục bị cáo, và phòng ngừa tội phạm chung.
Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người nghiện chất ma túy. Do đó cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tác dụng giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: xét hiện bị cáo không có nghề nghiệp và thủ nhập ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền với bị cáo.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, bị cáo có người thân là người có công với nước, nên áp dụng các tình tiết này để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt, tình tiết quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS.
[4] Về xử lý vật chứng: tịch thu xuất hủy số ma túy là vật chứng vụ án được hoàn lại sau khi trích mẫu giám định.
Đối với chiếc xe mô tô BKS 19H9-3164 bị cáo sử dụng làm phương tiện để đi mua ma túy. Do chưa xác định được nguồn gốc, Cơ quan điều tra tiếp tục lưu kho vật chứng để xác minh làm rõ và xử lý theo quy định, do vậy Tòa không đề cập giải quyết.
Đối với người phụ nữ bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, nhưng do không rõ lại lịch, địa chỉ nên chưa xác định được đối tượng cụ thể. Cơ quan điều tra tiếp tục có kế hoạch xác minh làm rõ, khi nào làm rõ sẽ xem xét xử lý theo quy định.
[5] Vế án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Thanh Tùng phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Nguyễn Thanh T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”
2. Căn cứ: điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, 47, Bộ luật Hình sự, Điều106,136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.
3. Xử phạt: Nguyễn Thanh T 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 18/12/2021.
4. Về xử lý vật chứng: tuyên xuất hủy số ma túy là vật chứng vụ án được hoàn lại sau khi trích mẫu giám định. Vật chứng được niêm phong trong phong bì và có đặc điểm như mô tả trong biên bản giao nhận vật chứng số: 38/BB ngày 23 tháng 03 năm 2022, hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Hòa Bình.
5. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thanh T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 31/2022/HSST
Số hiệu: | 31/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về