Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 4 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2022/HSST ngày 01/4/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2022/QĐXXST-HS ngày 08/4/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Anh T, Sinh năm: 1981, tại Hà Nội; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và Chỗ ở: thôn T, xã D, huyện T, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Họ và tên bố: Bùi Đắc K (đã chết); Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị B (sinh năm: 1957); Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: 02 tiền án, 02 tiền sự:

* Tiền án:

- Ngày 27/12/2012, Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 25 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Án số: 214/2012/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/8/2014. Đã được xóa án tích.

- Ngày 27/6/2017, Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 16 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Án số: 76/2017/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/4/2018. Đã được xóa án tích.

* Tiền sự:

- Năm 2006 và năm 2016, bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (đã hết thời hạn bị coi là đã bị xử lý vi phạm hành chính).

Danh chỉ bản số 0042 do Công an huyện T lập ngày 04/01/2022 Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/12/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 02 - Công an TP Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

a) Về hành vi phạm tội của bị cáo: Do nghiện ma túy nên khoảng 11 giờ 30' ngày 27/12/2021, Bùi Anh T đi bộ đến khu vực 01 ngõ cạnh đường gom dân sinh, thuộc đội 7, xã N, T, Hà Nội, với mục đích tìm mua ma túy loại Heroine để sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp và mua được 01 gói ma túy loại Heroine với giá 200.000 đồng của 01 nam thanh niên (không quen biết). Mua xong, T cất giấu gói ma túy vừa mua được vào trong túi áo khoác bên phải và đi tìm nơi sử dụng.

Hồi 11giờ 30' ngày 27/12/2021, tổ Công tác Công an xã Liên Ninh trong khi làm nhiệm vụ phát hiện Bùi Anh T có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra hành chính, tại khu vực đường gom dân sinh, thuộc địa phận xã N, T, Hà Nội. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện trong túi áo khoác bên phải của T có 01 gói nilon nhỏ, bên trong chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, T khai nhận là ma túy Heroine mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản niêm phong, thu giữ tang vật và đưa T về trụ sở để giải quyết. Ngoài ra, Cơ quan Công an còn tạm giữ của T 01 điện thoại nhãn hiệu mobell màu đen (đã qua sử dụng).

Kết quả xét nghiệm nước tiểu Bùi Anh T thể hiện: Dương tính với ma túy loại Heroine.

Ngày 27/12/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện T đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với số ma túy thu giữ của Bùi Anh T.

Tại bản Kết luận giám định số 60 ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: "Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy ngoài gói nilon là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,117 gam".

Cơ quan giám định đã sử dụng 0,035 gam ma túy Heroine trong tổng số 0,117 gam để làm mẫu giám định, còn lại 0,082 gam ma túy Heroine hoàn trả cho Cơ quan CSĐT - Công an huyện T.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Anh T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập được.

Đối với nam thanh niên đã bán ma túy cho T, do T khai không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện T không có căn cứ xác minh làm rõ.

b) Về các vấn đề khác của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong có 0,082 gam ma túy Heroine và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell là vật chứng của vụ án cần tiếp tục tạm giữ để giải quyết theo quy định của pháp luật.

c) Trích dẫn cáo trạng: Tại bản cáo trạng số 28/CT-VKSTT ngày 24/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố Bùi Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Anh T khai: bị cáo là người nghiện ma túy nên đã mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật và ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa có quan điểm: giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Anh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015: xử phạt bị cáo Bùi Anh T từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015; áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định. Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu; Lời khai người làm chứng, Bản kết luận giám định có đủ cơ sở khẳng định:

Hồi 11 giờ 30' ngày 27/12/2021, tại khu vực đường gom dân sinh, thuộc địa phận xã N, huyện T, Hà Nội, khi Bùi Anh T đang tàng trữ trái phép 0,117 gam ma túy loại Heroine với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã Liên Ninh phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo Bùi Anh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, gây mất trật tự trị an trong xã hội được Bộ luật hình sự quy định là hành vi phạm tội và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bởi vì, ma túy là chất gây nghiện nguy hiểm, khi sử dụng trái phép người sử dụng bị phụ thuộc hoàn toàn dẫn đến tha hóa đạo đức, lối sống, làm mất lý trí con người và là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Do tính chất nguy hiểm của nó nên nhà nước đã thống nhất quản lý và có nhiều biện pháp tuyên truyền, giáo dục về tác hại cũng như vai trò quản lý của nhà nước đối với chất gây nghiện này. Nhân thân của bị cáo có nhiều tiền án về ma túy, đã từng được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Mặc dù đã được xóa án tích và bản thân bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì lợi ích cá nhân vẫn cố ý thực hiện. Điều này chứng tỏ bị cáo có ý thức coi thường pháp luật. Do vậy, cần áp dụng một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nghiêm khắc với bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Do đó, giảm một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài có chữ ký của đối tượng Bùi Anh T và dấu của Công an xã Liên Ninh - Công an huyện T tại mép dán; bên trong có chứa 0,082 gam ma túy Heroine.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobell thu giữ của bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Phần nhận định và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Anh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Áp dụng: Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Bùi Anh T 20 (Hai nươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/12/2021.

3. Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

4. Xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài có chữ ký của đối tượng Bùi Anh T và dấu của Công an xã Liên Ninh - Công an huyện T tại mép dán; bên trong có chứa 0,082 gam ma túy Heroine.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell màu đen đã qua sử dụng. Không kiểm tra chất lượng.

Số vật chứng trên được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 18/04/2022 ký giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

5. Án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng: Điều 135, 136, 331, 332, 333, 336, 337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Áp dụng: Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo.

Bị cáo Bùi Anh T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2022/HS-ST

Số hiệu:31/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;