Bản án 31/2021/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 03/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh D, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 340/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST–HS ngày 20/01/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Hữu H, sinh năm 1997. Tại: Tỉnh TN. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã PM, huyện C, tỉnh Tây Ninh. Trình độ học vấn: 4/12. Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn H và bà Đỗ Thị Kim L; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Ngày 11/01/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh D xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự theo Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2019/HS-ST. Ngày 08/02/2020 chấp hành xong hình phạt tù; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 07/7/2020 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Hữu N, sinh năm 1992; hộ khẩu thường trú: Ấp N, xã H, huyện T tỉnh Bến Tre; Vắng mặt.

Ngưi làm chứng: Ông Tạ Minh H1; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Hữu H là đối tượng nghiện ma túy từ khoảng năm 2015. Khoảng 17 giờ ngày 06/7/2020, khi Lê Hữu H đang ở nhà của bạn là Tạ Minh H1, sinh năm 1988, ngụ tại tổ 9, khu 12, phường Chánh N, thành phố T, tỉnh D thì H nảy sinh ý định mua ma túy đá (Methamphetamine) về sử dụng. Để thực hiện ý định, H dùng điện thoại hiệu Itel, màu vàng đồng, có số thuê bao 0339.689.xxx gọi bằng ứng dụng Zalo để gặp 01 người nam thanh niên tên thường gọi là Th mà H đã mua ma túy trước đó nhiều lần hỏi mua với số tiền 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng. Sau đó H nhờ H chở cH đến nhà nghỉ Kim Thành thuộc khu 12, phường Chánh N, thành phố T, tỉnh D, khi đến nơi thì H thuê phòng số 304 để ngủ qua đêm còn H chạy về nhà. Sau khi nhận phòng trọ thì H gọi điện nhờ H chuyển khoản cho Th qua ứng dụng Momo số tiền 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn) đồng nhưng không nói cho H biết số tiền trên là H mua ma túy. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày 06/7/2020 thì Th liên hệ với H địa điểm giao ma túy và Th trực tiếp đem ma túy đến phòng 304 nhà nghỉ Kim Thành thuộc khu 12, phường Chánh N, thành phố T, tỉnh D đưa cho H, một lúc sau thì H và bạn ngoài xã hội của H tên T đến chơi và cả 3 cùng nhau sử dụng ma túy sau đó T đi về còn H ở lại ngủ với H, số ma túy còn lại H cất dưới nệm của phòng 304. Đến 10 giờ 30 phút ngày 07/7/2020, khi H và H đang ngủ thì bị lực lượng Công an phường Chánh N kiểm tra hành chính nhà nghỉ phát hiện Lê Hữu H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên tiến hành lập biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, thu giữ: 01 (Một) túi nylon miệng kéo dính đựng 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Itel, màu vàng đồng, có số IMEI 357889101197080 và số IMEI 357889101197098 có số thuê bao 0339.689.xxx; 01 bộ sử dụng ma túy gồm: 01 bình nhựa có nắp màu xanh, 01 đoạn ống hút nhựa, 01 ống thủy tinh một đầu có hình bầu tròn; 01 xe mô tô hiệu Wave alpha, màu trắng- đen- bạc, biển số 59S2-xxxxx, số khung HC1216DY336524, số máy HC12E5336592.

Ngày 14/7/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh D có Kết luận giám định số 429/MT-PC09, kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 (Một) túi nylon miệng kéo dính đựng 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng trong một bì thư được niêm phong có chữ ký của người bị bắt là Lê Hữu H, cán bộ niêm phong Trần Nguyễn Kiên Định và hình dấu đỏ của Công an phường Chánh N, thành phố T, tỉnh D là ma túy, có khối lượng: 2,2408 gam, loại Methamphetamine. Khối lượng hoàn lại sau giám định 2,0979 gam, loại Methamphetamine (đã được niêm phong). Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định này, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố T quyết định tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 bình nhựa có nắp màu xanh, 01 đoạn ống hút nhựa, 01 ống thủy tinh một đầu có hình bầu tròn là công cụ, phương tiện Lê Hữu H dùng sử dụng ma túy Viện kiểm sát nhân dân thành phố T ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T để đề nghị Tòa án nhân dân thành phố T quyết định tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Itel, màu vàng đồng, có số IMEI 357889101197080 và số IMEI 357889101197098 có số thuê bao 0339.689.xxx là tài sản cá nhân của Lê Hữu H, không liên quan đến tội phạm, do đó đề nghị Tòa án nhân dân thành phố T tuyên trả lại cho bị cáo Hậu.

Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Wave alpha, màu trắng- đen- bạc, biển số 59S2-xxxxx, số khung HC1216DY336524, số máy HC12E5336592 đã thu giữ của Tạ Minh H, quá trình điều tra xác định chiếc xe là của anh Trần Hữu N, sinh năm 1992, đăng ký hộ khẩu thường trú ấp N, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre. Do đó, ngày 30/10/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố T đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 21 để giao trả lại chiếc xe trên cho anh N.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Tạ Minh H cùng với Lê Hữu H vào ngày 07/7/2020 tại nhà nghỉ Kim Thành thuộc khu 12, phường Chánh N, thành phố T, tỉnh D, vào ngày 19/10/2020 Công an thành phố T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 223/QĐ-XPHC xử phạt đối với Tạ Minh H số tiền là 750.000 (bảy trăm năm mươi ngàn) đồng.

Đối với đối tượng nam tên “Th” là người đã giao bán ma túy cho Lê Hữu H tại phòng 304 nhà nghỉ Kim Thành thuộc khu 12, phường Chánh N, thành phố T, tỉnh D, quá trình điều tra xác định, Th tên Nguyễn Trung T, sinh năm 1986, ngụ tại phường T, thị xã A, tỉnh D, quá trình điều tra Th không thừa nhận hành vi bán ma túy cho Lê Hữu H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T nên sẽ tiếp tục điều tra, xác minh và đề cập xử lý sau khi có đủ căn cứ.

Cáo trạng số 11/CT-VKS-HS ngày 21/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Lê Hữu H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Hữu H mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về biện pháp tư pháp, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) túi nylon miệng kéo dính đựng 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng trong một bì thư được niêm phong có chữ ký của người bị bắt là Lê Hữu H, cán bộ niêm phong Trần Nguyễn Kiên Định và hình dấu đỏ của Công an phường Chánh N, thành phố T, tỉnh D là ma túy, có khối lượng: 2,2408 gam, loại Methamphetamine. Khối lượng hoàn lại sau giám định 2,0979 gam, loại Methamphetamine (đã được niêm phong) và 01 bình nhựa có nắp màu xanh, 01 đoạn ống hút nhựa, 01 ống thủy tinh một đầu có hình bầu tròn.

- Trả lại cho bị cáo Lê Hữu H: 01 điện thoại di động hiệu Itel, màu vàng đồng, có số IMEI 357889101197080 và số IMEI 357889101197098 có số thuê bao 0339.689.xxx Tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo Lê Hữu H trình bày: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo H xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Hữu H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của người chứng kiến, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 07/7/2020, tại phòng 304 nhà nghỉ Kim Thành thuộc khu 12, phường Chánh N, thành phố T, tỉnh D, bị cáo Lê Hữu H bị lực lượng Công an phường Chánh N kiểm tra hành chính, phát hiện H có hành vi tàng trữ trái phép 2,2408 gam ma túy, loại Methamphetamine và H xác định số ma túy trên H tàng trữ để nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo H đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh D truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Tệ nạn ma túy là nỗi lo chung của toàn xã hội, nó trực tiếp tàn phá sức khỏe, là nguyên nhân làm lan truyền nhiều bệnh xã hội và cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội khác. Bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy cũng như sự nghiêm cấm của pháp luật đối với các hành vi liên quan đến ma túy, nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện. Do vậy để giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời cũng để góp phần phòng ngừa chung cho xã hội, xét thấy cần có mức hình phạt nghiêm là cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian.

[4] Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy khi quyết định hình phạt, cần xem xét đến nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để có một bản án đúng người, đúng tội và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2019/HS-ST ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh D xử phạt bị cáo Lê Hữu H 01 năm 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Ngày 08/02/2020, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý. Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[7] Căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.

[8] Về biện pháp tư pháp:

- Đối với 01 (Một) bì thư niêm phong có chữ ký của Lê Hữu H, chữ ký cán bộ niêm phong Trần Nguyễn Kiên Đ, hình dấu đỏ của Công an phường Chánh N, thành phố T, tỉnh D, bên trong có chứa ma túy Methamphetamine trọng lượng sau giám định 2,0979 gam theo Kết luận giám định số 429/MT-PC09 ngày 14/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh D; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 (một) bình nhựa có nắp màu xanh, 01 (một) đoạn ống hút, 01 (một) ống thủy tinh một đầu có hình bầu dục cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Itel, màu vàng đồng, có số Imei: 357889101197080 và số Imei: 357889101197098, số thuê bao 0339.689.xxx (không kiểm tra chi tiết bên trong và tình trạng hoạt động) đây là tài sản cá nhân của bị cáo Lê Hữu H, không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Wave alpha, màu trắng - đen- bạc, biển số 59S2-xxxxx, số khung HC1216DY336524, số máy HC12E5336592 đã thu giữ của Tạ Minh H1, quá trình điều tra xác định chiếc xe là của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trần Hữu N, sinh năm 1992, đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp N, xã H, huyện T, tỉnh Bến Tre. Ngày 30/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố T đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 21 giao trả lại chiếc xe trên cho anh N và anh N không có yêu cầu gì khác nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[10] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Lê Hữu H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Về hình phạt: Áp dụng Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Lê Hữu H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/7/2020.

3/ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) bì thư niêm phong có chữ ký của Lê Hữu H, chữ ký cán bộ niêm phong Trần Nguyễn Kiên Đ, hình dấu đỏ của Công an phường Chánh N, thành phố T, tỉnh D, bên trong có chứa ma túy Methamphetamine trọng lượng sau giám định 2,0979 gam theo Kết luận giám định số 429/MT-PC09 ngày 14/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh D; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 (một) bình nhựa có nắp màu xanh, 01 (một) đoạn ống hút, 01 (một) ống thủy tinh một đầu có hình bầu dục.

- Trả lại cho bị cáo Lê Hữu H: 01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Itel, màu vàng đồng, có số Imei: 357889101197080 và số Imei:

357889101197098, số thuê bao 0339.689.xxx (không kiểm tra chi tiết bên trong và tình trạng hoạt động).

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 049.21 ngày 23/12/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T và Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố T).

4/ Về án phí: Buộc bị cáo Lê Hữu H nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 31/2021/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;