Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 31/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

 Ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 23/2021/HSST ngày 04/5/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2021/QĐXXST - HS ngày 14/5/2021 đối với bị cáo:

Lê Văn T; sinh năm 1988; tại xã T, huyện H, tỉnh T; trú tại: thôn P, xã T, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn N và bà Trương Thị M; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: - Tại bản án Hình sự phúc thẩm số 85/2011/HSPT ngày 27/5/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã xử phạt bị cáo Lê Văn T 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm,về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 102/2012/HS-ST ngày 11/12/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum đã xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với 18 tháng tù của bản án số 85/2011/HSPT ngày 27/5/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 36 tháng tù. Bị cáo chấp hành xong cả hai bản án ngày 07/01/2015.

Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/01/2021 đến ngày 30/01/2021 chuyển tạm giam cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn L; sinh năm: 1985; nơi cư trú: thôn L, xã L, huyện H, tỉnh T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại tiểu khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh T, Cơ quan điều tra Công an huyện Hà Trung phát hiện Lê Văn T và Nguyễn Văn L điều khiển xe môtô biển kiểm soát 29K8 - 7031có biểu hiện nghi vấn, Công an yêu cầu dừng xe kiểm tra, T tự nguyện giao nộp một gói nhỏ đang cầm ở tay trái được bọc bằng nilon màu hồng. Ngay tại chỗ Lê Văn T khai nhận gói chất bột Công an vừa thu giữ là ma túy T mới mua để sử dụng. Kiểm tra người Lê Văn T, Nguyễn Văn L và xe mô tô không phát hiện, thu giữ gì thêm. Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Văn T và niêm phong vật chứng.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) gói nhỏ bên ngoài được bọc bằng nilon màu hồng tiếp đến là lớp giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn, được niêm phong ký hiệu “Công an thị trấn Hà Trung - Công an huyện Hà Trung - tỉnh Thanh Hóa”; 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 29K8 - 7031.

Tại bản kết luận giám định số: 608/PC09 ngày 27/01/2021của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận: Chất bột màu trắng ngà dạng cụcvụn của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,143g (không phẩy một bốn ba gam) loại: Heroine.

Quá trình điều tra Lê Văn T khai nhận: Khoảng 11 giờ, ngày 21/01/2021 Lê Văn T điều khiển xe môtô biển kiểm soát 29K8 - 7031 từ nhà tại thôn P, xã T, huyện H sang thị trấn H để mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến cầu Đò Lèn, thuộc tiểu khu 2, thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, T gặp Nguyễn Văn L, sinh năm 1985, trú tại thôn L, xã L, huyện H, tỉnh T là người quen của T đang đi bộ, L xin ngồi nhờ xe về H, T đồng ý. T chở L đến khu vực trường mầm non Hà Phong (cũ) rồi bảo L đứng chờ để T đi có việc. Sau đó T điều khiển xe đi vào khu dân cư tiểu khu Thượng Quý, thị trấn Hà Trung gặp một người đeo khẩu trang, mặc áo chống nắng T hỏi mua 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) ma túy, người này cầm tiền và đưa lại cho T 01 (một) gói nhỏ ma túy được bọc bên ngoài bằng nilon màu hồng. T cầm gói ma túy ở tay trái rồi quay lại đón L về theo đường cũ, khi về đến đường đê sông Lèn thuộc tiểu khu Tương Lạc, thị Trấn Hà Trung, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa thì bị Công an phát hiện kiểm tra, Lê Văn T đã tự nguyện giao nộp gói ma túy đang cầm ở tay trái. Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 04/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 đến 21 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ được và bản kết luận giám định, đủ cơ sở khẳng định: Ngày 21/01/2021, Lê Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý với khối lượng 0,143g (không phẩy một bốn ba gam) loại Heroine, nhằm mục đích sử dụng. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Đây là chất gây nghiện có tác hại rất lớn và ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính gây ra các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo còn là đối tượng đã hai lần bị kết án:Ngày 27/5/2011, bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm, về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành xong bản án lại tiếp tục phạm tội. Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 102/2012/HS-ST ngày 11/12/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum đã xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với 18 tháng tù của bản án số 85/2011/HSPT ngày 27/5/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 36 tháng tù. Mặc dù đã được xóa án tích nhưng điều đó cho thấy bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy, phải cách ly khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dụcbị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Trong vụ án này, Nguyễn Văn L đi cùng Lê Văn T, quá trình điều tra xác định L không đồng phạm với T trong việc đi mua ma túy nên không có căn cứ để xử lý Nguyễn Văn L.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho T, do bị cáo không biết tên, địa chỉ của người này nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án.

[3]. Về vật chứng: Số ma túy cơ quan điều tra thu giữ được còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu tiêu huỷ.

Chiếc xe môtô biển kiểm soát 29K8 - 7031 T dùng làm phương tiện đi mua ma túy, chiếc xe không là vật chứng trong vụ án nào và là tài sản hợp pháp của chị Trương Thị T, nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung đã trả lại chiếc xe trên cho chị T là đúng quy định.

[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Về tội danh: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn T 21(Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 21/01/2021.

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: Toàn bộ số ma tuý còn lại sau giám định, được đựng trong phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành được dán kín, niêm phong (đặc điểm của phong bì niêm phong theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hà Trung ngày 19/5/2021).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo lê Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 31/2021/HS-ST

Số hiệu:31/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;