Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 19/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 8 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Ngọc H, sinh ngày 02/7/1982 tại huyện T, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Tổ dân phố 8, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Xuân M và bà Trần Thị Q; vợ Đoàn Thị Bích N, có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền sự; tiền án: không; nhân thân: Năm 2001 phạm tội trộm cắp tài sản, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2001/HSST ngày 12/12/2001. Bị cáo bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tuyên Hóa kể từ ngày 01/5/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Võ Văn N, sinh ngày 02/10/1973 tại huyện T, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: tn T, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn X (đã chết) và bà Cao Thị Đ; vợ Nguyễn Thị T, có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền sự; tiền án: không; nhân thân: Ngày 05/01/2020 thực hiện hành vi đánh bạc, bị cơ quan Công an huyện Tuyên Hóa xử phạt vị phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền (đã nộp phạt vào ngày 17/01/2020). Bị cáo bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Tuyên Hóa từ ngày 01/5/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 23 giờ, ngày 30/4/2021 Hoàng Ngọc H đến nhà của Võ Văn N tại thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Bình và có mang theo hơn 400 viên ma túy loại Hồng phiến. Tại đây H và N cùng nhau sử dụng 08 viên ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong H ngủ lại nhà N, số ma túy còn lại H đưa cho N cất dấu. N sau khi nhận ma túy từ H đã chia thành nhiều gói nhỏ, bỏ vào các túi nilon rồi cất giấu trong phòng ngủ của N với mục đích để cùng với H sử dụng dần. Đến 17 giờ 15 phút ngày 01/5/2021, khi N đang đi bộ trên đường thuộc thôn Đ, xã M, huyện T, tỉnh Quảng Bình thì bị Tổ công tác Công an huyện Tuyên Hóa kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần, phía trước bên phải N đang mặc trên người 01 gói ni lông màu đen, bên trong có 03 viên nén hình tròn, màu hồng, dạng thuốc tân dược.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Võ Văn N, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuyên Hóa phát hiện và thu giữ 416 viên nén, hình tròn, dạng thuốc tân dược trong đó có 413 viên màu hồng và 03 viên màu xanh. Toàn bộ số ma túy đã thu giữ H khai do H mua tại phường Đ, thành phố Đ vào ngày 30/4/2021của một người đàn ông không quen biết, không rõ tên, tuổi, số lượng hơn 400 viên (do khi mua H không kiểm đếm cụ thể), giá tiền 13.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận Giám định số: 680/GĐ-PC09 ngày 05/5/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 416 viên nén hình tròn, màu hồng, dạng thuốc tân dược thu giữ khi bắt quả tang và khám xét nơi ở của Võ Văn N là ma túy loại Methamphetamine có tổng khối lượng 44,96 gam và 03 viên nén hình tròn màu xanh không phải là chất ma túy, khối lượng 0,199 gam.

Vt chứng vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hóa đã tạm giữ:

- 416 viên nén hình tròn, màu hồng là ma túy loại Methamphetamine. Sau khi lấy mẫu vật phục vụ công tác giám định, số ma túy còn lại là 44,003 gam cùng vỏ bao gói được niêm phong trong phong bì thư ghi số: 680/GĐ-PC09, mẫu ký hiệu A1, A2, A3A, A3B, A4A và A4B”, được niêm phong dán kín, có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình và các chữ ký của những người liên quan trên mép dán, ngoài cùng có dán băng dính trong suốt.

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, màu đen, số IMEI 1: 354402104107610; số IMEI 2: 354403104107618, bên trong có gắn thẻ sim số:

0366009177 và thẻ sim số: 0888069997.

- 01 (một) chai bằng nhựa, trong suốt, trên thân chai có gắn một tờ giấy cuộn tròn.

- 01 (một) bật lửa gas, màu đỏ, đã qua sử dụng.

Tại bản Cáo trạng số 29/CT-VKSTH-HS ngày 30/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình đã truy tố Hoàng Ngọc H và Võ Văn N về tội "tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt Hoàng Ngọc H từ 10 năm 06 tháng tù đến 11 năm 06 tháng tù và xử phạt Võ Văn N từ 10 năm tù đến 11 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày các bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam. Về xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ghi số 680/GĐ-PC09, mẫu ký hiệu A1, A2, A3A, A3B, A4A và A4B” dán kín, được niêm phong bằng chữ ký của những người tham gia niêm phong và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, ngoài cùng dán băng dính trong suốt, bên trong là chất ma túy và toàn bộ vỏ bao gói; 01 (một) chai bằng nhựa, trong suốt, trên thân chai có gắn một tờ giấy cuộn tròn và 01 (một) bật lửa gas, màu đỏ, đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Võ Văn N 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, màu đen, số IMEI 1: 354402104107610; số IMEI 2: 354403104107618, bên trong có gắn thẻ sim số: 0366009177 và thẻ sim số: 0888069997.

Các bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa và luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa, có đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Như vậy hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo Hoàng Ngọc H và Võ Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập và được thẩm tra tại phiên toà. Mặc dù nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật, nhưng Hoàng Ngọc H và Võ Văn N vẫn mua ma túy về cất dấu trong nhà để cùng nhau sử dụng. Số ma tuý mà H và N tàng trữ là loại Methamphetamine, có khối lượng 44,96gam. Trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ về thời gian, địa điểm, khối lượng chất ma tuý, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Hoàng Ngọc H và Võ Văn N phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Như vậy quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa và luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa đối với các bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của các bị cáo Hoàng Ngọc H và Võ Văn N đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại chất ma tuý. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội cần được xử lý nghiêm. Vì vậy căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự quyết định đối với các bị cáo một mức án tương xứng với tính chất hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra, nhằm đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa chung.

Trong vụ án, bị cáo H là người trực tiếp mua ma túy rồi mang đến nhà của N để cùng sử dụng, vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Đối với bị cáo N khi H mang ma túy đến nhà, bị cáo không những không can ngăn mà cùng sử dụng ma túy với H đồng thời tiếp nhận số ma túy còn lại từ H, sau đó chia thành từng gói nhỏ, cất dấu tại nhà mình để sử dụng, nên bị cáo cũng phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu. Bị cáo H năm 2001 phạm tội trộm cắp tài sản bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xử phạt 18 tháng tù, cho hưởng án treo; bị cáo N năm 2020 có hành vi đánh bạc bị cơ quan Công an huyện Tuyên Hóa xử phạt vi phạm hành chính, nhưng các bị cáo vẫn không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành công dân có ích cho xã hội mà lại tiếp tục phạm tội. Điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật của các bị cáo, nên cần phải xử lý nghiêm. Tuy nhiên cũng cần xem xét cho các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Xét số ma túy mà các bị cáo đã tàng trữ cùng với 01 (một) chai bằng nhựa, trong suốt, trên thân chai có gắn một tờ giấy cuộn tròn và 01 (một) bật lửa gas, màu đỏ, đã thu giữ trong quá trình điều tra là những công cụ, phương tiện liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng và vật mà nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, vì vậy cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu huỷ. Đối với 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, màu đen, số IMEI 1:

354402104107610; số IMEI 2: 354403104107618, bên trong có gắn thẻ sim số:

0366009177 và thẻ sim số: 0888069997. Quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo Võ Văn N.

[5] Bị cáo Hoàng Ngọc H khai đã mua ma túy của một người đàn ông tại phường Đồng Sơn, thành phồ Đồng Hới, nhưng không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có cơ sở để xử lý.

[6] Về án phí: Các bị cáo Hoàng Ngọc H và Võ Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: tuyên bố các bị cáo Hoàng Ngọc H và Võ Văn N phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc H 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01/5/2021.

Xử phạt bị cáo Võ Văn N 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01/5/2021.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo Hoàng Ngọc H và Võ Văn N với thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày, để đảm bảo cho việc thi hành án, theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

3. Về xử lý vật chứng:

Tch thu, tiêu hủy: 01 phong bì ghi số 680/GĐ-PC09, mẫu ký hiệu A1, A2, A3A, A3B, A4A và A4B” dán kín, được niêm phong bằng chữ ký của những người tham gia niêm phong và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, ngoài cùng dán băng dính trong suốt, bên trong là chất ma túy và toàn bộ vỏ bao gói; 01 (một) chai bằng nhựa, trong suốt, trên thân chai có gắn một tờ giấy cuộn tròn và 01 (một) bật lửa gas, màu đỏ, đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Võ Văn N 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, màu đen, số IMEI 1: 354402104107610; số IMEI 2: 354403104107618, bên trong có gắn thẻ sim số: 0366009177 và thẻ sim số: 0888069997.

Các vật chứng được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa có đặc điểm mô tả theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/7/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hóa và Chi cục Thi hành án án dân sự huyện Tuyên Hóa.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo Hoàng Ngọc H và Võ Văn N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (19/8/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2021/HS-ST

Số hiệu:31/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;