TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 31/2021/HSST NGÀY 18/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 8 năm 2021, tại: Phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2021/TLST - HS ngày ngày 23 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2021/QĐXXST - HS ngày 06 tháng 8 năm 2021, đối với bị cáo:
Lê Anh Q (tên gọi khác: Đ), sinh ngày 06/3/1991 tại huyện V, tỉnh Q; nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện V, tỉnh Q; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: thợ xây; trình độ học vấn: 10/12; con ông Lê Văn T, sinh năm: 1960 và bà Trương Thị T, sinh năm: 1963; vợ: Hoàng Minh N, sinh năm: 1996 và có con 01, sinh năm 2014;
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 07/7/2009, bị Tòa án nhân dân quận L, thành phố Đ xử phạt 06 tháng 09 ngày tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/3/2021 cho đến nay, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ ngày 06/3/2021, Lê Anh Q lên thị trấn H, huyện V đón xe khách vào thành phố Đ, tỉnh Q, với mục đích để mua ma túy về sử dụng. Khi vào đến gần chợ Đ thì xuống xe và gặp 01 người đàn ông làm nghề xe ôm (không rõ tên, địa chỉ). Q nhờ người đàn ông này mua 200.000 đồng ma túy tổng hợp, sau khi đưa tiền thì người này mua cho Q 03 viên nén màu hồng đựng trong một mảnh nilon màu trắng bên ngoài dán băng keo màu đen. Sau đó, Q giấu 03 viên nén vào trong túi áo khoác ấm bên phải đang mặc rồi đi chơi. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, Q đón xe khách ra lại thị trấn H, sau đó xin xe người đi đường về nhà. Khi đến gần ngã ba đội 5, thôn Đ, xã V, Q xuống xe, đi bộ một đoạn thì gặp lực lượng Công an huyện Vĩnh Linh đang tuần tra. Lực lượng Công an yêu cầu kiểm tra thì Q đã tự nguyện giao nộp 03 viên nén màu hồng mà mình vừa mua về cất giấu để sử dụng, Q khai là ma túy tổng hợp (sau đó được niêm phong trong phong bì ký hiệu MT). Tiến hành khám xét khẩn cấp chổ ở của Q tại thôn T, xã V, huyện V, Cơ quan điều tra thu giữ một chai nhựa màu trắng có đục một lỗ tròn.
Tại bản kết luận giám định số: 326/KLĐG-KTHS ngày 10/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: 03 (ba) viên nén màu hồng (được niêm phong trong phong bì có ký hiệu MT) có khối lượng 0,2933 gam là ma túy loại Methamphetamine.
Methamphetamine là ma túy nằm trong danh mục II, STT: 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Tại Cáo trạng số: 30/CT-VKS -VL ngày 22/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Linh, đã truy tố bị cáo Lê Anh Q (tên gọi khác: Đ), về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Linh giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:
Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo Lê Anh Q (tên gọi khác: Đ), phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo từ 14 đến 16 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 06/3/2021).
Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn và thu nhập không ổn định nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng:
Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ, bao gói kèm theo và 01 chai nhựa màu trắng không còn giá trị sử dụng nên đề nghị căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Về các vấn đề khác:
Trong vụ án này, người đàn ông làm nghề xe ôm, bị cáo khai mua ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng chưa xác định được nên chưa có cơ sở xử lý. Vì vậy, đề nghị không xét trong vụ án này.
Bị cáo Lê Anh Q: Khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận tội danh như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Linh đã truy tố là đúng. Bị cáo chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ để xét xử bị cáo với mức hình phạt thấp, tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo, sớm hòa nhập cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng:
Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Phân tích chứng cứ buộc tội đối với bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định, lời khai của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở khẳng định:
Vào tối ngày 06/3/2021, tại khu vực đường gần ngã ba Đội 5, thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Q, Lê Anh Q đã có hành vi cất giấu trái phép trong người 03 viên nén màu hồng, với mục đích để sử dụng. Theo kết luận giám định: 03 viên nén màu hồng thu giữ của Q có khối lượng 0,2933 gam là ma túy loại Methamphetamine. Hành vi nêu trên của Lê Anh Q đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung hình phạt: “…Methamphetamine,…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, thể hiện sự liều lĩnh, coi thường kỷ cương pháp luật, gây mất trật tự trị an, gây hoang mang lo lắng trong dư luận quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật, nhưng vì để thỏa mãn ham muốn cá nhân nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm để giáo dục trực tiếp đối với bị cáo; đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.
Tuy nhiên, cũng cần xem xét cho bị cáo tàng trữ ma túy với khối lượng ở mức thấp (0,2933 gam) so với định lượng được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, với khung hình phạt từ 01 đến 05 năm. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thành khẩn khai báo; hoàn cảnh gia đình khó khăn, trong khi bị cáo là lao động chính, con nhỏ đang độ tuổi ăn học nên cần xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần đưa ra mức án ngang mức khởi điểm của khung hình phạt, theo hướng cách ly bị cáo ra ngoài xã hội là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Trong vụ án này, người đàn ông làm nghề xe ôm, bị cáo khai mua ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng chưa xác định được nên chưa có cơ sở xử lý. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xét.
[4]. Về hình phạt bổ sung:
Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung. Nhưng xét thấy, bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn và thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5]. Về xử lý vật chứng:
Đối với số ma túy còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ, bao gói kèm theo và 01 chai nhựa màu trắng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7]. Về biện pháp ngăn chặn:
Thời hạn tạm giam đối với bị cáo, theo Quyết định tạm giam số: 55/2021/HSST-QĐTG ngày 02 tháng 8 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh, còn dưới 45 ngày. Vì vậy, cần thiết phải ra Quyết định tạm giam mới đối với bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, tuyên bố: Bị cáo Lê Anh Q (tên gọi khác: Đ), phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo: Lê Anh Q 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 06/3/2021).
[3]. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong có ký hiệu mã số PS3A 077866, trên phong bì có chữ ký của những người tham gia niêm phong và đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị; 01 (một) chai nhựa màu trắng, trên thân chai có đục 01 (một) lỗ tròn.
(Các vật chứng trên hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị và có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 29 tháng 7 năm 2021).
[2]. Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Anh Q phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[3]. Về quyền kháng cáo:
Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2021/HSST
Số hiệu: | 31/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Linh - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về