Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 130/2021/HS-ST NGÀY 16/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 139/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2021/HSST-QĐ ngày 03 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1, Họ và tên: Q; Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1999 tại N; Giới tính: Nam; Hộ khẩu Đ trú: Xóm 5, xã T, huyện T, tỉnh N; Chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú rõ ràng; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông T và bà H; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/6/2021 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố H; số giam: 3012A2/M6 (04B), có mặt tại phiên tòa.

2, Họ và tên: Đ, sinh năm: 1995 tại H; Giới tính: Nam; Hộ khẩu Đ trú: Đội 3, thôn T, xã H, huyện M, thành phố H; Chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú rõ ràng; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông C và bà Y; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 22/7/2015, Tòa án nhân dân thành phố H tuyên phạt Đ 12 (mười hai) tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”; 12 (mười hai) tháng tù về tội “Che giấu tội phạm”, tổng hợp hình phạt phải chấp hành là 24 (hai mươi tư) tháng tù (Đ chưa nộp án phí hình sự, dân sự, tuy nhiên phạm tội nghiêm trọng khi là vị thành niên nên được coi là không có án tích); Bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/6/2021 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố H; số giam: 3011A2/M6 (21D), có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng hơn 01 giờ ngày 17/6/2021, khi uống rượu xong tại Xóm 4, thôn Đồng Nhân, xã Đông La, huyện H, thành phố H, Q rủ Đ là công nhân làm cùng xưởng sản xuất, đi mua ma túy đá về sử dụng thì Đ đồng ý. Sau đó, Q lên mạng internet tra và tìm được số điện thoại 0969.524.xxx để mua ma túy, Q sử dụng số điện thoại 0868.392.xxx liên lạc với số điện thoại trên được người này hướng dẫn ra khu vực cầu sắt thuộc thôn La Tinh, xã Đông La, huyện H, thành phố H để mua ma túy. Đ mượn xe máy AIR BLADE biển số 19L1 - xxxxx của anh Dương Hồng Q là công nhân làm cùng với Q và Đ, rồi Q đèo Đ ra điểm hẹn. Trên đường đi, Đ có đưa cho Q số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) để Q mua ma túy và thống nhất mua ma túy xong, Q sẽ trả cho Đ 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng). Khi đi đến gần khu vực cầu sắt, Q dừng xe rồi đi bộ vào phía trong, Đ đứng ngoài đợi, Q vào giáp đường tàu thì gặp một người đàn ông đứng đợi. Q đưa cho người đàn ông này 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) thì được người đàn ông đưa cho Q 01 (một) túi nilon chứa ma túy “đá”. Q giấu túi ma túy vào trong ốp lưng điện thoại đang sử dụng rồi đi ra chỗ Đ. Cả hai đi tìm chỗ sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Công an huyện H đã tiến hành lập biên bản và đưa Q, Đ về trụ sở để làm việc.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) túi ni lông bên trong có chứa tinh thể màu trắng kích thước 2x2cm.

- 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA AIR BLADE, màu đen biển số 19L1 – xxxxx số khung 455958, số máy: 002xxx4, xe đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng bên trong.

- 01 (một) điện thoại IPHONE 11ProMax màu vàng, mặt sau của điện thoại có ốp màu trắng viền ốp màu vàng, bên trong lắp sim viettel số: 0868.392.xxx điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, thu giữ của Q.

- 01(một) điện thoại SAMSUNG A50s, màu đen, phía trên mặt trước của điện thoại có nhiều vết rạn nứt nhỏ, bên trong lắp sim số: 0878.324.143 điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, thu giữ của Đ.

Tại Bản kết luận giám định số 5013/KLGĐ-PC09 ngày 23/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H kết luận:

“Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon có khối lượng 0,254 gam ma túy Methamphetamine”.

* Tại bản Cáo trạng số 134/CT-VKSHĐ ngày 28/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, thành phố H đã truy tố các bị cáo Q và Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự

* Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H, thành phố H rút tình tiết bị cáo Đ có tiền án (do tại thời điểm phạm tội năm 2015, bị cáo Đ là vị thành niên, phạm loại tội nghiêm trọng); các vấn đề khác giữ nguyên nội dung như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự

+ Tuyên bố các bị cáo Q và Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

+ Xử phạt bị cáo Q từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù.

+ Xử phạt bị cáo Đ từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, do vậy đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung-phạt tiền đối với các bị cáo.

- Về vật chứng: Đề nghị cho tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của các bị cáo; tịch thu, sung ngân sách nhà nước chiếc điện thoại IPHONE 11ProMax của bị cáo Q; trả lại bị cáo Đ chiếc điện thoại di động SAMSUNG A50s bên trong có thẻ sim.

* Lời nói sau cùng, các bị cáo thành khẩn nhận tội, bày tỏ sự ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra–Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai báo toàn bộ hành vi phạm tội. Các bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo:

Tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận.

Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 17/6/2021, Q và Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,254 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng cho bản thân tại khu vực cầu sắt thuộc thôn La Tinh, xã Đông La, huyện H, thành phố H nhưng chưa kịp sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện H phát hiện, bắt quả tang và thu giữ cùng tang vật.

Do nghiện ma túy, các bị cáo đã cố ý cất giấu 0,254 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng, đây là hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo là người đã thành niên, có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện H, thành phố H đã truy tố và kết luận là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đặc biệt trong tình hình hiện nay, tệ nạn ma tuý đang là vấn đề nhức nhối của xã hội, ma tuý gây ảnh hưởng tới sự phát triển lành mạnh của con người, làm hủy hoại sức khỏe, giảm khả năng lao động và là một trong những nguyên nhân gây ra các tội phạm khác; hành vi của các bị cáo gây mất trật tự an toàn xã hội, đã xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất gây nghiện. Cần phải có mức hình phạt tù nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nhằm giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và góp phần răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về Nhân thân: Ngày 22/7/2015, Tòa án nhân dân thành phố H tuyên phạt Đ 12 (mười hai) tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”; 12 (mười hai) tháng tù về tội “Che giấu tội phạm”, tổng hợp hình phạt phải chấp hành là 24 (hai mươi tư) tháng tù (Đ chưa nộp án phí hình sự, dân sự), tại thời điểm này bị cáo chưa thành niên phạm tội nghiêm trọng nên được coi là không có án tích).

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Hai bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức pháp luật hạn chế; nhân thân chưa tiền án, tiền sự; là những tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo là đồng phạm mang tính chất giản đơn, cùng rủ nhau góp tiền mua ma túy về để cùng sử dụng, nên có vai trò ngang nhau.

Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện H là phù hợp, nhằm giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung:

Các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung-phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Ma tuý là vật cấm lưu hành, do vậy tịch thu tiêu huỷ số ma tuý đã thu giữ của các bị cáo.

- 01 điện thoại di động IPHONE 11ProMax bị cáo Q sử dụng liên lạc mua ma túy về sử dụng do vậy cho tịch thu, sung quỹ nhà nước.

- 01 điện thoại di động SAMSUNG A50s thu giữ của bị cáo Đ không liên quan đến vụ án trả lại cho bị cáo Đ.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Các Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng, tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự

Tuyên bố các bị cáo Q và Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Q 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2021. Xử phạt bị cáo Đ 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2021.

2. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS - Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong được dán kín của Công an thành phố H, có ghi tên đối tượng Q-sinh năm 1999, HKTT: Xóm 5, xã T, huyện T, tỉnh N. Đ, sinh năm 1995, HKTT: Đội 3, xã thôn Trung, xã Hồng Sơn, huyện M, thành phố H. Ngày niêm phong 17/6/2021. Tại các mép dán phong bì niêm phong còn nguyên vẹn chữ ký, họ tên của giám định viên Nguyễn Hồng Q, cán bộ Đỗ Văn Hiền, đối tượng Q và Đ.

- Tịch thu, sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại Iphone 11ProMax màu vàng, cũ, đã qua sử dụng, số IMEI:353888100646711. Mặt sau của điện thoại có ốp màu trắng viền ốp màu vàng, bên trong lắp 01 thẻ sim, trên mặt từng thẻ sim có các số 89840480000000755844. Phía góc trái dưới màn hình và góc phải phía trên màn hình có vết rạn nứt (không kiểm tra chất lượng, tình trạng hoạt động của máy khi bàn giao).

- Trả lại cho bị cáo Đ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG A50s, màu đen, số IMEI 1: 358193100533984, số IMEI 2: 358194100533982, phía trên mặt trước của điện thoại có nhiều vết vỡ rạn, bên trong lắp 01 thẻ sim, trên mặt từng thẻ sim có các số 89840810008722891203 (không kiểm tra chất lượng, tình trạng hoạt động của máy khi bàn giao).

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H, thành phố H; có tình trạng, đặc điểm như Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/11/2021, bên giao Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an huyện H, bên nhận Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, thành phố H.)

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Đ vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: n cứ khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2021/HS-ST

Số hiệu:130/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoài Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;