Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 31/2022/TLST - HS ngày 11 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Đào Ngọc T, sinh năm 1994; Nơi cư trú: Thôn 1 N, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Đình T1, sinh năm1967 và bà Lê Thị D, sinh năm 1972; vợ: Nguyễn Thị Cẩm Y, sinh năm 1992; con: có 02 con, lớn sinh năm 2019, nhỏ sinh năm 2020; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 18/01/2021, Công an huyện B, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính, hình thức “Cảnh cáo” về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; ngày 06/8/2021, Công an huyện L, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Nhân thân: ngày 10/7/2015, Công an huyện B, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính, hình thức “Cảnh cáo” về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Ngày 07/5/2017, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm – Công an tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính, hình thức “Cảnh cáo” về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tạm giữ từ ngày 24/12/2021 đến ngày 30/12/2021 chuyển tạm giam đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Đào Trọng T2, sinh năm 19051; vắng mặt

+ Anh Đào Anh Đ, sinh năm 1984

Đều có địa chỉ: Xóm 7, xã T, huyện B, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người làm chứng: Ông Ngô Đăng B, sinh năm 1962; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 24/12/2021, tổ công tác Công an phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam làm nhiệm vụ tại khu vực đường L thuộc tổ 9, phường L thì phát hiện hai đối tượng nam giới đang điều khiển xe mô tô BKS 90B1 – 38826 đi trong ngõ 225 ra đường L có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tội phạm về ma túy nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra thì đối tượng điều khiển xe vứt lại xe mô tô rồi bỏ chạy. Đối tượng ngồi sau tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục và khai tên là Đào Ngọc T, sinh năm 1994, trú tại thôn N, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam. Tại chỗ T khai nhận gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục là ma túy, mục đích cất giữ để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa T về trụ sở lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định pháp luật.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng và 01 chiếc xe mô tô BKS 90B1 – 33826.

Ngày 24/12/2021, Công an phường L, thành phố P đã bàn giao hồ sơ, vật chứng cùng đối tượng Đào Ngọc T đến Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phủ Lý giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 24/12/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phủ Lý đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đào Ngọc T tại thôn 1 N, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam. Kết quả không thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 271/PC09 – MT ngày 29/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT 01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,163g, loại heroine”.

Tại bản cáo trạng số 41/CT – VKS – PL ngày 11/3/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Đào Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung năm 2017 sau đây gọi là Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng, không thay đổi bổ sung. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đào Ngọc T từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói.

Buộc bị cáo Đào Ngọc T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không tranh luận bào chữa gì và chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm có cơ hội trở về gia đình Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đào Anh Đ xác định: chiếc xe mô tô BKS 90B1-33826 là của ông Đào Trọng T2, anh Đ mượn sử dụng rồi gửi tại nhà và bị cáo T tự lấy rồi sử dụng phương tiện đi mua ma túy, bị cơ quan điều tra tạm giữ phương tiện. Nay cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô trên cho ông Đảo Trọng T2.

Người làm chứng ông Ngô Đăng B xác định thời gian, địa điểm phát hiện quả tang hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo ghi nhận trong biên bản phạm pháp quả tang, biên bản thu giữ niêm phong vật chứngg là đúng sự thật ông đã chứng kiến và phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến phản đối hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ là hợp pháp.

Việc Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt công bố lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được cơ quan điều tra thu thập đúng trình tự luật định là tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[2] Đánh giá về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, kết luận giám định của Cơ quan chuyên môn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy các tài liệu, chứng cứ do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập đủ căn cứ buộc tội để Hội đồng xét xử kết luận:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 24/12/2021, tại khu vực đường L thuộc tổ 9, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Đào Ngọc T đang cất giấu trái phép khối lượng 0,163 gam ma túy, loại heroine mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố, buộc tội của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự - Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị xử phạt cảnh cáo về hành vi sử dụng, tàng trữ trái phép chất ma túy, hiện đang có hai tiền sự phạt cảnh cáo và phạt tiền về sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng không lấy đó làm bài học lại phạm tội thể hiện coi thường pháp luật, khó cải tạo bản thân.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; Tai phiên tòa gia đình bị cáo xuất trình đơn xác nhận hoàn cảnh gia đình rất khó khăn hiên đang nuôi hai con còn quá nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình được chính quyền địa phương xác nhận nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, là nguyên nhân dẫn đến gia tăng các tệ nạn xã hội tạo cơ hội cho các phần tử xấu buôn bán trái phép ma túy gây nhiều hệ lụy xấu trong cộng đồng, làm diễn biến tình hình tội phạm và tệ nạn về ma túy thêm phức tạp, gây bất bình sâu sắc trong quần chúng nhân dân.

Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định tương xứng với hành vi phạm tội để cải tạo chính bị cáo và phòng ngừa chung trong cộng đồng.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội không có mục đích trục lợi nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về các vấn đề khác của vụ án.

Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ của Đào Ngọc T, T khai đã góp số tiền 20.000đ với đối tượng nam giới tên là T3 khoảng 40 tuổi (không rõ nhân thân, lai lịch) rồi cùng T3 mua 01 gói ma túy với giá 500.000đ tại ngõ 225 đường L thuộc tổ 9, phường L, thành phố P của người đàn ông khoảng 35 tuổi (không rõ nhân thân, lai lịch).Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an phường L, thành phố P tiến hành xác minh nhưng không xác định được người tên T3 và người đàn ông đã bán ma túy cho T, ngoài lời khai của T không có tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý theo quy định của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng là vật chứng của vụ án không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc xe mô tô BKS 90B1- 33826 (đã cũ, đã qua sử dụng) xác định thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Đào Trọng T2, ngày 19/12/2021 anh Đào Văn Đ (là con trai ông T2) mượn chiếc xe mô tô trên của ông T2, sau đó anh Đ gửi chiếc xe ở nhà của Đào Ngọc T, T hỏi mượn chiếc xe mô tô của anh Đ để đi. Anh Đ không biết T sử dụng chiếc xe mô tô đó để thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy ngày 20/01/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phủ Lý đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông Đào Trọng T2 chiếc xe mô tô nêu trên là phù hợp pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106; 136; 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Đào Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Đào Ngọc T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/12/2021.

2. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì đã niêm phong dán kín mặt trước có ghi mẫu vật hoàn trả QT01, số 271/PC09-MT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà nam; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

(Vật chứng có đặc điểm, tình trạng được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 14/3/2022).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Đào Ngọc T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt thực hiện quyền kháng cáo trong 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;