Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TNH AN GIANG

BẢN ÁN 29/2021/HS-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Châu Văn H, sinh năm 1989, tại huyện C, tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp P, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (Châu Văn T) và bà Nguyễn Thị T1; có vợ là Phan Thị Cẩm T5 (không đăng ký kết hôn) và 02 con sinh năm 2012, 2017;

Tiền án, tiền sự: chưa;

Bị bắt tạm giam từ ngày 28/01/2021 cho đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Hoàng Thị Ý L (L), sinh năm 1997; nơi cư trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1997; nơi cư trú: ấp L, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Ông Nguyễn Văn T (Châu Văn T), sinh năm 1969; nơi cư trú: ấp P, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

Người làm chứng:

- Bà Nguyễn Thị T1; có mặt.

- Ông Phan Thành T2; vắng mặt.

- Ông Đỗ Văn T3; vắng mặt.

- Bà Văng Thị T4; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ ngày 31/12/2020, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Công an xã K phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện C đến khu vực tổ A, ấp P, xã K phát hiện Châu Văn H và Hoàng Thị Ý L đang ngồi cập lề đường, có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, nên tiến hành kiểm tra thu giữ của H 02 bọc nilon được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, để trong túi quần trước bên phải; 01 bọc nilon được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, được quấn băng keo màu đen, để trong nón bảo hiểm màu trắng; thu giữ của L 01 điện thoại di động hiệu VIVO màu xanh dương, lắp thẻ sim Mobifone số 0788887424. H khai chất tinh thể màu trắng là ma túy đá, mua của B (không rõ họ, địa chỉ cụ thể) với số tiền 500.000 đồng, mục đích để sử dụng. Do H và L dương tính với ma túy nên được đưa đi cắt cơn giải độc tại Cơ sở điều trị, cai nghiện ma túy tỉnh A, trong thời gian chờ quyết định xử lý.

- Vật chứng thu giữ: 03 bọc nilon được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy); 01 nón bảo hiểm màu trắng; 01 điện thoại di động VIVO màu xanh dương có lắp thẻ sim Mobifone số 0788887424 và 01 xe mô tô biển số 67AL-063.18.

- Kết luận giám định số 01/KLGT-PC09(MT) ngày 15/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A: Mẫu gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,0777 gam.

Ngày 26/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới khởi tố bị can H để điều tra xử lý.

Tại Cáo trạng số 23/CT-VKSCM ngày 14 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Châu Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, - Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.

- Người làm chứng bà Nguyễn Thị T1, bà Văng Thị T4 cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn điều tra.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Pháp luật nghiêm cấm mọi hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy dưới mọi hình thức. Hành vi của bị cáo ảnh hưởng đến sức khỏe người sử dụng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật và tội phạm. Cho nên, đề nghị xử phạt nghiêm bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Về nhân thân, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về hình phạt bổ sung, đề nghị không áp dụng. Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy cùng vật chứa ma túy và 01 nón bảo hiểm màu trắng; giao trả cho Hoàng Thị Ý L 01 điện thoại di động VIVO màu xanh dương có lắp thẻ sim Mobifone số 0788887424; giao trả cho bị cáo 01 xe mô tô biển số 67AL-063.18.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Mới, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Châu Văn H khai nhận, khoảng 16 giờ ngày 30/12/2020, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 67L2-5064 đến nhà Hoàng Thị Ý L, mượn điện thoại di động của L điện cho người tên B đặt mua 01 bọc ma túy đá với số tiền 500.000 đồng. Sau khi nhận ma túy từ B, bị cáo chia thành 03 bọc, cất giấu trong túi quần trước bên phải 02 bọc và trong nón bảo hiểm của bị cáo 01 bọc. Bị cáo trở về gặp L và nói cho L biết vừa đi mua ma túy. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, bị cáo chở L đến cập lề đường khu vực quán nước giải khát của bà T4, thuộc ấp P, xã K, để nói chuyện. Một lúc sau, B chạy xe mô tô biển số 67AL-063.18 đến. Do xe mô tô của Báo không có đèn chiếu sáng nên B để lại xe cho bị cáo sử dụng và mượn xe mô tô biển số 67L2-5064 của bị cáo chạy đi. Đến khoảng 00 giờ ngày 31/12/2020, lực lượng Công an kiểm tra, thu giữ 03 bọc ma túy đá của bị cáo và các vật chứng khác có liên quan.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra; phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 31/12/2020 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập; biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 31/12/2020 cùng sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường kèm theo do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới lập; lời khai của Hoàng Thị Ý L về việc bị cáo có mượn điện thoại di động của L gọi cho người tên B nói chuyện nhưng không rõ nội dung. Sau đó, bị cáo điều khiển xe mô tô chạy đi và một lúc sau quay về, nói cho L biết có mua ma túy. Bị cáo điều khiển xe mô tô chở L đến khu vực cập lề đường trước quán nước giải khát để nói chuyện. Khi đó, người tên B điều khiển xe mô tô biển số 67AL-063.18 đến, để lại xe mô tô biển số 67AL-063.18 cho bị cáo sử dụng và điều khiển xe mô tô của bị cáo chạy đi. Một lúc sau, lực lượng Công an đến kiểm tra, thu giữ của bị cáo 03 bọc ma túy đá, 01 nón bảo hiểm và 01 xe mô tô biển số 67AL-063.18; thu giữ của Liên 01 điện thoại di động; lời khai của ông Phan Thành T2, ông Đỗ Văn T3 về việc chứng kiến lực lượng Công an đến kiểm tra, thu giữ của bị cáo 02 bọc nilon được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, để trong túi quần trước bên phải; 01 bọc nilon được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, được quấn băng keo màu đen, để trong nón bảo hiểm màu trắng và các vật chứng khác vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 31/12/2020. Khi đó, bị cáo khai, chất tinh thể màu trắng trong các bịch nilon là ma túy đá.

Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ khi bắt quả tang gồm: 03 bọc nilon được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 nón bảo hiểm màu trắng; 01 điện thoại di động VIVO màu xanh dương có lắp thẻ sim Mobifone số 0788887424 và 01 xe mô tô biển số 67AL-063.18.

Theo Kết luận giám định số 01/KLGT-PC09(MT) ngày 15/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A, chất tinh thể màu trắng bên trong các bịch nilon thu giữ của bị cáo được giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,0777 gam.

Từ các căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,0777 gam.

Bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc cất giấu ma túy và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, b ổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân, ma tuý là chất gây nghiện. Một khi đã sử dụng thì khó có thể từ bỏ được. Chúng được xem nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe, suy thoái nòi giống. Tệ nạn ma tuý còn được xem là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội, tội phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng trật tự, an toàn xã hội.

Bị cáo là người thành niên, đang ở tuổi lao động nhưng lại lao vào con đường nghiện ngập. Để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy mà Nhà nước, xã hội đang ra sức thực hiện. Bên cạnh đó, bị cáo có nhân thân xấu do đã sử dụng ma túy trong khoảng thời gian dài. Do đó, cần có hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như trước phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung, xét bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, không nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm của người liên quan:

- Bị cáo khai, lượng ma túy bị thu giữ được bị cáo mua của người tên B. Do chưa xác định được họ, địa chỉ người tên B bán ma túy cho bị cáo nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới tiếp tục làm rõ, xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

- Bà Hoàng Thị Ý L đã có hành vi cho bị cáo mượn điện thoại liên lạc với người tên B nhưng không biết bị cáo điện thoại để mua ma túy. Bên cạnh đó, L không tham gia vào việc mua, tàng trữ ma túy cùng bị cáo. Cho nên, trách nhiệm hình sự không đặt ra đối với Liên mà chuyển đến cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính là phù hợp quy định pháp luật.

- Bị cáo khai, bị cáo đã sử dụng xe mô tô biển số 67L2-5064, do ông Nguyễn Văn T đứng tên chủ sở hữu, làm phương tiện mua ma túy từ người tên B để sử dụng. Tuy nhiên, ông T không biết bị cáo sử dụng xe mô tô biển số 67L2-5064 làm phương tiện mua ma túy. Cho nên, trách nhiệm hình sự không đặt ra đối với ông T là phù hợp quy định pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Lượng ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang bị cáo là vật cấm lưu hành; 01 nón bảo hiểm màu trắng là vật được dùng vào việc cất giấu ma túy, có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội và không còn giá trị sử dụng. Vì vậy, tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy và nón bảo hiểm này theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 điện thoại di động VIVO và sim số kèm theo, bà L cho bị cáo mượn điện thoại di động này liên lạc với người tên B nhưng không biết mục đích liên hệ để mua ma túy sử dụng. Vì vậy, giao trả lại cho bà L điện thoại di động VIVO cùng sim số kèm theo bị thu giữ theo điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 67AL-063.18, mặc dù, theo Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 22/02/2021 của Công an huyện C, xe mô tô biển số 67AL-063.18 do ông Nguyễn Thanh S đứng tên chủ sở hữu và không ghi được ý kiến của ông S. Tuy nhiên, theo biên bản xác minh ngày 23/4/2021, Công an thị trấn C cung cấp, không nhận được đơn thư về việc bị chiếm đoạt xe mô tô biển số 67AL-063.18. Đồng thời, bị cáo khai, khi giao ma túy cho bị cáo, người tên Báo đi bộ, không điều khiện xe mô tô biển số 67AL-063.18. Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án không thể hiện xe mô tô biển số 67AL-063.18 liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, giao trả lại bị cáo xe mô tô biển số 67AL-063.18 bị thu giữ theo điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với xe mô tô biển số 67AL-063.18 thì giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Châu Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt: Châu Văn H: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 28/01/2021 (ngày hai mươi tám, tháng một, năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các điểm a, c khoản 2, các điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong (Vụ số: 01/KLGĐ- PC09(MT) ngày 15 tháng 01 năm 2021) có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng K và Đặng Hữu T. Bên trong có mẫu M1, M2 còn lại sau khi đã giám định, khối lượng 0,9648 (không phẩy chín sáu bốn tám gam);

+ 01 (một) mũ bảo hiểm màu trắng;

- Giao trả cho bị cáo Châu Văn H: 01 (một) xe mô tô biển số 67AL- 063.18, số máy: VDEJQ13FMB001457, số khung: RPECCB1PEFA001457.

- Giao trả cho bà Hoàng Thị Ý L: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVO, màu xanh, có lắp thẻ sim mạng Mobifone.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14/6/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới với Chi cục Thi hành án dân sự huyện C).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Châu Văn H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bà Hoàng Thị Ý L, ông Nguyễn Thanh S, ông Nguyễn Văn T (Châu Văn T) là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2021/HS-ST

Số hiệu:29/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;