TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 29/2021/HSST NGÀY 11/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 11 tháng 5 năm 2021. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng mở phiên Tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2021/HSST ngày 15/4/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2021/QĐXX - HS ngày 26/4/2021 đối với :
Bị cáo:Nguyễn Văn T, Giới tính : Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 10/7/1984.
Nơi sinh và cư trú: Thôn Qu Tr, xã M T, huyện H H1, tỉnh T B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Nguyễn Văn B; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị C; Vợ: Trần Thị N;
Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2012.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:Ngày 04/6/2002 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm về tội cướp tài sản đã được xóa án tích;
Ngày 20/5/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà xử phạt 09 tháng tùvề tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong bản án ngày 23/11/2013;
Ngày 24/01/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà xử 01 năm 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong bản án ngày 31/01/2014 Tháng 1/2008bị UBND tỉnh Thái Bình ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục 24 tháng, đã chấp hành xong ngày 15/11/2009 Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/01/2021 đến ngày 22/01/2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đông Hưng.
( Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa)
Người chứng ki ến :
1.Ông Nguyễn Trọng T, sinh năm 1960 Trú tại: Thôn H Đ, xã M T, huyện Đ H, tỉnh T B
2. Bà Lê Thị H, sinh năm 1971 Trú tại: Thôn L M, xã M T, huyện Đ H, tỉnh T B.
(Đều vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến vụ án tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Văn T là người sử dụng ma túy loại hê rô in. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 09 giờ 00 phút ngày 19/01/2021, T đi bộ từ nhà ở thôn Q T, xã M T huyện H H1 ,tỉnh T B ra thị trấn H H1 sau đó đi nhờ xe của một người đi đường không quen biết sang khu vực ngã tư thuộc địa phận xã M T, huyện Đ H, tỉnh TB, để tìm mua ma túy về sử dụng. Do đã có lần mua ma túy ở đây nên khi đến nơi bị cáo xuống xe đi bộ vào ngõ gần ngã tư xã M T, huyện Đ H, tìm gặp một người phụ nữ khoảng 30 tuổi, T không biết tên và địa chỉ, gặp người này T hỏi: “ Bán cho tôi 200.000đồng hê rô in”, người này đồng ý, T đưa cho người này 200.000 đồng, người này cầm tiền và đưa cho T một gói ma túy được gói bằng giấy trang kim màu trắng. T cầm gói ma túy bỏ vào túi quần bên trái phía trước đang mặc rồi đi bộ ra ngoài đường thuộc xã M T, huyện Đ H để tìm quán thuốc tân dược mua bơm kim tiêm sử dụng ma túy. Khi T đi bộ qua ngã tư thuộc khu vực đèn tín hiệu giao thông thuộc địa phận xã M T khoảng hơn 10m thì bị lực lượng Công an huyện Đ H yêu cầu dừng lại kiểm tra do có nghi ngờ liên quan đến ma túy. Trước sự chứng kiến của bà Lê Thị H và ông Nguyễn Trọng T lực lượng Công an đã giải thích quyền và nghĩa vụ cho T, T tự nguyện lấy từ trong túi quần bên trái phía trước đang mặc 01 gói nhỏ được gói bằng giấy trang kim màu trắng giao nộp cho lực lượng Công an. Cơ quan Công an đã gói lại và niêm phong trong phong bì thư, sau đó đưa Tvề trụ sở UBND xã M T, huyện Đ H lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng sau đó dẫn giải Tuấn về trụ sở Công an huyện Đông Hưng để giải quyết.
Cơ quan điều tra Công an huyện Đ H đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Tuấn tại thôn Q Tr xã M T, huyện HH1, tỉnh T B nhưng không quản lý thu giữ đồ vật, tài sản gì.
Tại bản kết luận giám định số 24/KLGĐ-PC09 ngày 20/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:“Mẫu gửi giám định thu giữ của Nguyễn Văn T là ma túy, loại Hêrôin có khối lượng 0,1596 gam”.
Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo; Cáo trạng số 29/CT- VKSĐH ngày 15/4/2021 đã truy tốbị cáo T vềt tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng giữ quyền công tố tại phiên tòa phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, hậu quả, nhân thân của bị cáo, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở đó đề nghị HĐXX kết tội bị cáo T theo toàn bộ cáo trạng đã truy tố, đồng thời áp dụng Điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáoT phạm tội:“ Tàng trữ trái phép chất ma túy” phạt bị cáo mức hình phạt từ 01 năm 09 tháng – 02 năm tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo đồng thời đề nghị HĐXX xử lý vật chứng.
Tại phiên tòa bị cáo T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cụ thể như sau: Hồi 10 giờ 10 phút ngày 19/01/2021, tại trục đường xã thuộc thôn L Minh, xã MT, huyện ĐH, tỉnh TB, Nguyễn Văn T, có hành vi tàng trữ 0,1596 gamma túy, loại Heroine(Hêrôin)với mục đích để sử dụng thì bị Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng bắt quả tang.
Bị cáo xác định cáo trạng truy tố bị cáo về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng pháp luật vì vậy không trình bày lời bào chữa, cũng không trình bày ý kiến tranh luận về tội danh, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, điều luật áp dụng, mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị.
Kết thúc phần tranh luận tại phiên tòa bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết việc tàng trữ ma túy là sai, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo được sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa hội đồng xét xử nhận định như sau:
[ 1] Về hành vi quyết định tố tụng:
Các tài liệu chứng chứng cứ do Điều tra viên, Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra vụ án đã tuân thủ các quy định của pháp luật. Đó là các tài liệu hợp pháp chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo. Căn cứ vào các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[ 2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đúng như lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với cáo trạng số 29/CT - VKSĐH ngày 15/4/2021của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng đã truy tố.
Lời khai nhận tội của bị cáo còn phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang do Công an huyện Đ H lập hồi 11giờ 05 phút ngày 19/01/2021, phù hợp với Kết luận giám định 24/KLGĐ-PC09 ngày 22/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, phù hợp với lời khai của người chứng kiến là ông Nguyễn Trọng T, bà Lê Thị H và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 10 phút ngày 19/01/2021, tại khu vực đường liên xã thuộc địa phận thôn L M, xã M T, huyện Đ H, tỉnh T B, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,1596 gam (Không phẩy một nghìn năm trăm chín mươi sáu gam)ma túy loại Heroine, với mục đích để sử dụng bị Công an huyện Đ H bắt quả tang.
Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Điều 249.Tàng trữ trái phép chất ma túy 1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
....
c. Heroin, cocain, methamphetamineAmphetamine, MDMA hoặc XLR -11cos khối lượng từ 0,1gam đến 05 gam;
.....
[3] Về tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh an toàn xã hội. Bị cáo là người có nhân thân xấu đã nhiều lần bị Tòa án các cấp kết án và đã bị áp dụng hình phạt tù giam, nhưng sau khi cải tạo xong, vẫn không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân, biết tác hại của ma túy, biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là bất hợp pháp nhưng vẫn tàng trữ ma túy để sử dụng. Vì vậy, việc đưa vụ án ra xét xử và áp dụng mét møc ¸n tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
[ 4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Bị cáo thành khẩn khai báonên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự.
Bị cáokhông phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng, lao động tự do không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, dovậy không nhất thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6]Về xử lý vật chứng:Số ma túy loại Hê rô in thu giữ của T là chất Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
[7]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8]Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định Về nguồn gốc ma tuý: T khai mua của người phụ nữ khoảng 30 tuổi nhưng không biết rõ họ, tên địa chỉ cụ thể của người này. Ngoài lời khai của T không có tài liệu nào khác nên không có căn cứ để điều tra xử lý.
Về số tiền 200.000đồng dùng để mua ma túy là do T lao động mà có.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2.Về hình phạt và điều luật áp dụng: Áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38; Điều 50, Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Văn T 02( hai) nămtù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 19/01/2021.
3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự.
Tịch thu, tiêu hủy 0,1350 gam (Không phẩy một nghìn ba trăm năm mươi gam)ma túy loại Heroine được niêm phong, trong phong bì do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình hoàn trả mẫu vật giám định, có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện ĐH và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ H ngày 15/4/2021.
4.Về án phí:Áp dụng Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án ngày 11/5/2021.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2021/HSST
Số hiệu: | 29/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về