TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 287/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 232/2023/TLST- HS ngày 02 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 261/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Quang Đ, sinh năm 1998, tại tỉnh Hưng Yên; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã S, huyện G, tỉnh Hưng Yên; chỗ ở:
Ấp 7, xã M, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thiện T, sinh năm 1957 (đã chết) và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1965, bị cáo chưa có vợ, con; anh chị em ruột gồm 04 người kể cả bị cáo.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 11/4/2023 đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Chí L, sinh năm 1995, tại tỉnh Hưng Yên; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã S, huyện G, tỉnh Hưng Yên; chỗ ở: Ấp 7, xã M, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Chí T, sinh năm 1966 và bà Trần Thị T, sinh năm 1966, bị cáo chưa có vợ, con; anh chị em ruột gồm 03 người kể cả bị cáo.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 11/4/2023 đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3. Họ và tên: Đỗ Mạnh T, sinh năm 1999, tại tỉnh Thái Bình; giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T2, xã V, huyện H, tỉnh Thái Bình; chỗ ở: Ấp 7, xã M, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn:
12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đỗ Minh S, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1963, bị cáo chưa có vợ và con; anh chị em ruột gồm 02 người kể cả bị cáo.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ chuyển tạm giam từ ngày 11/4/2023 đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Mạnh T:
- Ông Trần Minh H, sinh năm 1984 (có mặt);
- Ông Lê Văn T, sinh năm 1993 (vắng mặt);
Luật sư Văn phòng Luật sư Đ thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh;
Địa chỉ liên lạc: Phường MH, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Linh Q, sinh năm 2000 (vắng mặt);
Địa chỉ: Thôn K, xã N, huyện C, tỉnh Gia Lai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 10 tháng 4 năm 2023, sau khi uống bia xong thì Nguyễn Quang Đ rủ Nguyễn Chí L và Đỗ Mạnh T cùng về phòng ngủ tại xưởng sản xuất khô gà Anh Dương địa chỉ ấp 7, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi về đến phòng, Đ lên trên gác tại phòng lấy bộ dụng cụ có sẵn ma túy ra sử dụng được 3 hơi thì cất lại chỗ cũ (do một người thanh niên chưa rõ lai lịch tên Bầu để lại). Một lúc sau đó L, T về đến lên gác và cùng nhau lấy bộ dụng cụ có sẵn ma túy ra sử dụng. Sau khi sử dụng hết ma túy trong bộ dụng cụ thì L và T nói với Đ đi mua ma túy về sử dụng tiếp, Đ đồng ý. Lúc này, Đ điện thoại cho người thanh niên sử dụng Zalo nick “Nguyễn Anh Tuấn” mua 400.000 đồng ma túy thì Tuấn đồng ý và hẹn giao dịch tiền, chất ma túy tại khu vực Cầu Dừa thuộc Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Đ hỏi mượn xe máy biển số 81U1-X của T đi mua ma túy, T đồng ý; Đ rủ L cùng đi mua ma túy, L đồng ý. Đ điều khiển xe máy biển số 81U1-X chở L đến khu vực Cầu Dừa. Tuấn kêu Đ đi bộ một mình vào hẻm tối để giao dịch tiền, chất ma túy. Đ kêu L đứng đợi còn Đ đi bộ vào hẻm khoảng 15 mét gặp Tuấn đưa 400.000 đồng và nhận 02 gói ma túy, Đ mua thêm 01 ống thủy tinh với số tiền 50.000 đồng. Có ma túy và ống thủy tinh, Đ đi bộ ra đưa cho L giữ. L cầm 02 gói ma túy trong tay trái, còn ống thủy tinh để trong túi quần phía trước đang mặc. Đ điều khiển xe máy biển số 81U1-X chở L đi về phòng. Khi đến đường Bình Mỹ thuộc ấp 6B, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang.
Tại Bản kết luận giám định số 3607/KL-KTHS ngày 19/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,2074 gam, loại Methamphetamine;
Vật chứng thu giữ:
- 01 gói nylong bên trong có chứa tinh thể không màu.
- 01 ống thủy tinh.
- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.
- 01 xe gắn máy mang biến số: 81U1-X, hiệu Suzuki loại Satria F150, có số máy: CGA1ID218342; số khung: MH8DL11AZLJ218341.
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone Plus số Imei1: 353284074653620.
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone Plus số Imei1: 355682345664683.
Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Tại Bản cáo trạng số 223/CT-VKS.CC ngày 30/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Củ Chi để xét xử Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Chí L và Đỗ Mạnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi giữ quyền công tố luận tội: Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các chứng cứ có tại hồ sơ cụ thể: Vào ngày 10 tháng 4 năm 2023 bị cáo Nguyễn Quang Đ rủ bị cáo Nguyễn Chí L và bị cáo Đỗ Mạnh T sử dụng chất ma túy và đi mua thêm ma túy về sử dụng. Các bị cáo L và T đều đồng ý, bị cáo T cho các bị cáo Đ và L mượn xe gắn máy mang biển số 81U1-X của mình để đi mua ma túy. Khi bị cáo Đ và bị cáo L đến ấp 6B, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, Thành Phố Hồ Chí Minh thì bị Công an xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi bắt quả tang, thu giữ ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,2074 gam loại Methamphetamine; bị cáo T đồng phạm. Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Đ mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Chí L mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đỗ Mạnh T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định.
- Luật sư Trần Minh H bào chữa cho bị cáo Đỗ Mạnh T trình bày: Thống nhất với điều luật và tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã truy tố.
Về hình phạt: Bị cáo Đỗ Mạnh T trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử chấp hành tốt quy định, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc T hợp ít nghiêm trọng, bị cáo bị khuyết tật nặng (bệnh tim bẩm sinh) có quyết định hưởng trợ cấp xã hội do Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình cấp; có mẹ ruột bà Nguyễn Thị C đã có công lao đối với sự nghiệp giáo dục của đất nước được Bộ giáo dục và đào tạo tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục. Hơn nữa, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm i, p, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo Đỗ Mạnh T được giảm nhẹ hình phạt.
Các bị cáo không tranh luận, không tự bào chữa.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo rất ăn năn, hối cải và xin Hội đồng xét xử khoan hồng xử mức án nhẹ cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Mạnh T là Luật sư Lê Văn T vắng mặt tại phiên tòa, bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt Luật sư Lê Văn T nên Hội đồng xét xử xét vẫn tiến hành xét xử vắng mặt người bào chữa theo quy định tại Điều 291 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử xét vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:
Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Chí L và Đỗ Mạnh T đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án cụ thể: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 10/4/2023 Công an xã Bình Mỹ, huyện phát hiện bắt quả tang các bị cáo Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Chí L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2074gam, loại Methamphetamine; bị cáo Đỗ Mạnh T có hành vi cho bị cáo Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Chí L mượn xe gắn máy biến số 81U1-X, hiệu Suzuki loại Satria F150, số máy: CGA1ID218342; số khung: MH8DL11AZLJ218341 của bị cáo để đi mua chất ma túy nên bị cáo Đỗ Mạnh T là đồng phạm. Bằng hành vi trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Chí L và Đỗ Mạnh T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017 là phù hợp.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý dược liệu, dược phẩm độc hại, gây mất an ninh trật tự tại địa phương và tạo ra một dư luận xấu trong nhân dân. Các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn cơn nghiện mà các bị cáo đã bất chấp thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử nghĩ cần áp dụng hình phạt nghiêm để cải tạo và giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt cho xã hội. Tuy nhiên, cần xem xét tính chất và mức độ nguy hiểm trong hành vi và nhân thân của các bị cáo để có mức hình phạt tương xứng.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Đối với bị cáo Nguyễn Quang Đ:
Tình tiết tăng nặng: Không có.
Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đối với bị cáo Nguyễn Chí L:
Tình tiết tăng nặng: Không có.
Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đối với bị cáo Đỗ Mạnh T:
Tình tiết tăng nặng: Không có.
Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người bị khuyết tật nặng (bệnh tim bẩm sinh) có quyết định hưởng trợ cấp xã hội số 4533/QĐ-UBND do Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình cấp ngày 24/4/2014; có mẹ ruột bà Nguyễn Thị C đã có công lao đối với sự nghiệp giáo dục của đất nước được Bộ giáo dục và đào tạo tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục số 198/QĐ/BGD&ĐT ngày 13/01/2006. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4] Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017, xét thấy các bị cáo là người nghiện ma túy nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp.
Bị cáo Nguyễn Quang Đ là người khởi xướng, rủ rê và là người tự lấy tiền của mình mua chất ma túy cho các bị cáo L và bị cáo T cùng sử dụng nên bị cáo Đ chịu mức án cao hơn so với các bị cáo khác là phù hợp.
[5] Về xử lý vật chứng:
Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy:
- 01 (Một) gói niêm phong mang số vụ 808/2023 có chữ ký niêm phong của Cán bộ điều tra và Giám định viên;
- 01 (Một) ống thủy tinh và 01 (Một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy.
Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước gồm:
- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone số Imeil: 353284074653620 đã qua sử dụng;
- 01 (Một) xe gắn máy mang biến số 81U1-X, số khung MH8DL11AZLJ218341, số máy CGA1ID218342 đã qua sử dụng.
Trả cho bị cáo Đỗ Mạnh T: 01 điện thoại di động hiệu Iphone số Imeil: 355682345664683 đã qua sử dụng.
[6] Đối với Nguyễn Đông T chủ xưởng sản xuất khô gà AD không biết việc các bị cáo Đ, L và T sử dụng trái phép chất ma túy tại xưởng do ông quản lý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự đối với Thiện, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.
[7] Đối với người thanh niên sử dụng Zalo nick “Nguyễn Anh Tuấn” và người thanh niên bán ma túy cho bị cáo Đ hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.
[8] Đối với người thanh niên tên Bầu để lại số ma túy và bộ dụng cụ sử dụng ma túy tại xưởng sản xuất khô gà AD, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau, Hội đồng xét xử thấy phù hợp.
[9] Xét lời trình bày của Luật sư Trần Minh H bào chữa cho bị cáo Đỗ Mạnh T đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm p, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo Đỗ Mạnh T được giảm nhẹ hình phạt là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Tuy nhiên, về việc Luật sư đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo T bị truy tố tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 là tội phạm nghiêm trọng. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí, Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Chí L và Đỗ Mạnh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017;
- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang Đ 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/4/2023.
2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017;
- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Chí L 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/4/2023.
3. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm p, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017;
- Xử phạt: Bị cáo Đỗ Mạnh T 01 (Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/4/2023.
4. Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu, tiêu hủy:
- 01 (Một) gói niêm phong mang số vụ 808/2023 có chữ ký niêm phong của Cán bộ điều tra và Giám định viên;
- 01 (Một) ống thủy tinh và 01 (Một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy.
Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước gồm:
- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone số Imeil: 353284074653620 đã qua sử dụng;
- 01 (Một) xe gắn máy mang biến số 81U1-X, số khung MH8DL11AZLJ218341, số máy CGA1ID218342 đã qua sử dụng.
Trả cho bị cáo Đỗ Mạnh T: 01 điện thoại di động hiệu Iphone số Imeil: 355682345664683 đã qua sử dụng.
Các vật chứng trên được liệt kê tại phiếu nhập kho vật chứng số 215/PNK ngày 08/9/2023 và Lệnh nhập kho vật chứng số 215/LNK-CQĐT-MT ngày 08/9/2023 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi.
5. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; buộc các bị cáo Nguyễn Quang Đ, Nguyễn Chí L và Đỗ Mạnh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
6. Áp dụng Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống Đ hợp lệ.
Bản án 287/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 287/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về