Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 28/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 26/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26/5/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2022/TLST-HS ngày 15/4/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2022/QĐXXST-HS ngày 13/5/2022, đối với bị cáo:

Lê Hoàng P ; Sinh năm 1988 tại xã Quảng Châu, Quảng Xương, Thanh Hóa; Nơi ĐKHKTT: Khu 2, thị trấn M, huyện M, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Con ông: Lê Ngọc H , sinh năm: 1960. Nghề nghiệp: Hưu trí; Con bà: Tào Thị L , sinh năm: 1961. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Hiện bố, mẹ bị cáo đều đang sinh sống tại khu 2, Thị trấn M, huyện M, tỉnh Thanh Hóa.

Vợ: Vũ Thị P , sinh năm: 1994. Nghề nghiệp: Giáo viên Mầm non; Chỗ ở hiện nay: Thôn Ng, xã H, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Có hai người con, lớn N sinh năm 2019, nhỏ N sinh ngày 06/11/2021. Hiện các con của bị cáo đang sinh sống cùng với vợ bị cáo tại thôn Ng, xã H, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ ngày 12/01/2022, chuyển tạm giam ngày 21/01/2022 tại nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 ngày 10/01/2022 bị cáo đi xe máy từ nhà đến bản Pù Ngùa, xã Pù Nhi, huyện M, tỉnh Thanh Hóa chơi. Khi đi đến gần nhà văn hóa bản Pù Ngùa thì gặp và mua với một người đàn ông đang đứng ở ngoài đường 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) được một túi nilon màu hồng trong túi là các viên ma túy hồng phiến, khi nhận ma túy bị cáo không kiểm đếm nên không biết có bao nhiêu viên. Sau đó cất giấu số ma túy vào trong túi áo khoác bên trái, rồi lên xe máy để trở về nhà. Khoảng 23 giờ ngày 10/01/2022 bị cáo đã lấy 01 chiếc điếu tự chế cùng túi hồng phiến ra sử dụng, xong bị cáo cất giấu túi hồng phiến còn lại dưới tấm lót sàn trong phòng của mình rồi đi ngủ. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 12/01/2022, bị cáo lấy ma túy cùng chiếc điếu tự chế để chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện M, Công an thị trấn M và Đồn biên phòng cửa khẩu Tén Tằn phát hiện bắt quả tang về vi tàng trữ trái phép chất ma túy gồm 16 (Mười sáu) viên nén màu hồng và 01 (Một) viên nén màu xanh, bị cáo khai đó là ma túy tổng hợp để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra còn thu giữ một chiếc điếu tự chế bị cáo dùng để sử dụng ma túy.

Tại bản kết luận giám định số: 463/PC09 ngày 18/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

- 16 (mười sáu) viên nén hình trụ tròn màu hồng có dập chìm chữ “WY”của phong bì mặt trước có ghi “Vật chứng thu giữ của Lê Hoàng P” là ma túy, có tổng khối lượng 1,598g (một phẩy năm chín tám gam) loại: Methamphetamine.

- 01 (một) viên nén hình trụ tròn màu xanh có dập chìm chữ “A” của phong bì mặt trước có ghi “Vật chứng thu giữ của Lê Hoàng P” là ma túy, có tổng khối lượng 0,089g (không phẩy không tám chín gam) loại: Methamphetamine.

Tổng khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 1,687g (Một phẩy sáu tám bảy gam) Methamphetamine.

Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số: 27/CT-VKS-ML ngày 14/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan T hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình, không ai xúi giục hay ép buộc nhận tội thay người khác. Bị cáo khai, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy trái phép là vi phạm pháp luật và bị Nhà Nước nghiêm cấm nhưng do không kìm chế được bản thân nên đã cố tình phạm tội. Bị cáo công nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu là đúng, không khai báo thêm tình tiết mới.

Tranh luận và luận tội: Tại phiên tòa. Kiểm sát viên vẫn giữ N quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về điều luật: Áp dụng: Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Về tội danh: Tuyên bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Về hình phạt: Xử phạt bị cáo từ 18 đến 22 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không có tính khả thi.

Về vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước Việt nam cấm lưu hành và điếu tự chế bị cáo dùng để sử dụng ma túy, đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo có tội, không thuộc trường hợp được miễn án phí nên phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội, không thay đổi, bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện VKS.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức án thấp N để bị cáo sớm được về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét hành vi, quyết định tố tụng: Trong giai đoạn T hành tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đầy đủ, khách quan, nghiêm túc các bước điều tra, truy tố theo đúng N tắc T hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, do đó những người tham gia tố tụng trong vụ án này không có khiếu nại gì.

[2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và chứng cứ khác trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định: Bị cáo tàng trữ 1,687g (Một phẩy sáu tám bảy gam) Methamphetamine đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự”, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà Nước. Hiện nay ma túy đang trở thành hiểm họa lớn cho toàn xã hội về tác hại của nó, ma tuý là N nhân phát sinh những tội phạm khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.

[3]. Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bản thân bị cáo là người tham gia nghĩa vụ quân sự, nhập ngũ tháng 3/2007 đến ngày 15/01/2009 hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương; con còn nhỏ; Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Với các tình tiết này HĐXX xem xét xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, thể hiện tính nghiêm minh và sự khoan hồng của pháp luật.

[4]. Xét về hình phạt:

Hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Thấy rằng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về mức hình phạt cho bị cáo là phù hợp, đã đủ sức răn đe, phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, cho thấy bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập thấp và không ổn định, không khả thi. HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Xét về vật chứng trong vụ án:

Số ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước Việt Nam cấm lưu hành và ống điếu tự chế bị cáo dùng sử dụng ma túy, cần tịch thu, tiêu hủy.

[6]. Các nhận định khác:

Đối với người đàn ông đã bán ma túy, bị cáo khai mới gặp lần đầu, ngoài ra không biết thông tin gì thêm, Cơ quan CSĐT Công an huyện M không đủ căn cứ xử lý.

[7]. Xét về phần án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo có tội, không thuộc trường hợp được miễn án phí nên phải nộp án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ: Điều 260; Khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 và Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Về tội danh: Tuyên: Bị cáo phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý

Về hình phạt: Hình phạt chính, xử phạt bị cáo Lê Hoàng P 18 (Mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (12/01/2022). Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về tang vật: Tịch thu tiêu hủy: Phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành sau giám định, mặt trước ghi vụ Lê Hoàng P , mặt sau được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Lê Minh T, Vũ Văn N, Lưu Bình N và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa làm giáp lai; Ống điếu tự chế.

Vật chứng đang lưu giữ, bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Thanh Hóa, theo Quyết định chuyển vật chứng số: 26/QĐ-VKS-ML, ngày 14/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M và Biên bản giao nhận vật chứng số: 37/NK-2022 ngày 15/4/2022 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Thanh Hóa.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí HSST.

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Án xử công khai, có mặt bị cáo; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 28/2022/HS-ST

Số hiệu:28/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;