Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 276/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 276/2021/HSST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 287/TLST- HS ngày 06/9/2021 đối với các bị cáo:

1- Họ và tên: Nguyễn Xuân M, sinh năm 1971; Giới tính: Nam; ĐKHKTT: Số 88 đường N, tổ 20, phường Y, Cầu Giấy, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 7/12; Con ông: Nguyễn Xuân Tr (đã chết); Con bà: Dương Thị D; Vợ: Nguyễn Thị L (đã ly hôn); Có 02 con, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2006.

Tiền án: - Bản án số 246 ngày 24/5/1991, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Cướp giật tài sản.

- Bản án số 835 ngày 26/10/1995, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt tù chung thân về tội Giết người, Cướp tài sản và Đánh bạc. Ra trại ngày 30/10/2013.

- Bản án số 07 ngày 29/01/2015, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội xử phạt 7 năm 6 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 10/10/2020.

Nhân thân: - Ngày 19/02/1990, Công an quận Hai Bà Trưng bắt về hành vi Trộm cắp tài sản của công dân.

- Ngày 17/3/1990, Công an huyện Lý Nhân, Hà Nam bắt về hành vi Trộm cắp tài sản của công dân.

- Ngày 22/6/1993, Công an quận Hai Bà Trưng bắt về hành vi Cố ý gây thương tích.

Danh chỉ bản số 127, lập ngày 14/3/2021 tại Công an quận Đống Đa. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 08/3/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

2- Họ và tên: Đỗ Hải N, sinh năm 1977; Giới tính: Nam; ĐKHKTT: Khu hành chính HVKT Quân sự, phường LB, thành phố VY, tỉnh Vĩnh Phúc; Nơi ở: P307 N1 Tập thể 212, tổ dân phố T, phường X, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 12/12; Con ông: Đỗ Hải N1; Con bà: Nguyễn Thị H.

Tiền án: - Bản án số 310 ngày 28/4/2004, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 42 tháng tù về tội Cướp giật tài sản.

- Bản án số 160 ngày 28/8/2007, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Hà Nội xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Bản án số 41 ngày 12/3/2009, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Bản án số 69 ngày 31/5/2010, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Bản án số 108 ngày 15/02/2012, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Bản án số 01 ngày 06/01/2014, Tòa án nhân dân quận Ba Đình, Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ra trại ngày 27/8/2015.

- Bản án số 73 ngày 29/4/2016, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ra trại ngày 10/6/2020.

Nhân thân: Bản án số 56 ngày 19/7/1997, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Danh chỉ bản số 119, lập ngày 13/3/2021 tại Công an quận Đống Đa. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 08/3/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 08/3/2021, tại khu vực ngã 3 Hoàng Cầu - Võ Văn Dũng, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội, Tổ công tác Y19/141- Công an thành phố Hà Nội đã tiến hành kiểm tra đối với Nguyễn Xuân M đang điều khiển xe mô tô Honda Dream, biển kiểm soát: 32-177-K9 chở Đỗ Hải N. Quá trình kiểm tra, tổ công tác phát hiện thu giữ trong lòng bàn tay trái của N có 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, bên trong có 01 túi nilon màu trắng, kích thước khoảng (2x2)cm và 01 gói giấy kích thước khoảng (1x1,5)cm bên trong đều chứa chất bột màu trắng. Ngoài ra, Cơ quan công an tạm giữ của M 01 chiếc xe mô tô Honda Dream BKS: 32-177-K9 và 01 điện thoại di động Asanzo; tạm giữ của N 01 điện thoại Nokia 3310.

Tại bản Kết luận giám định số 2131/KLGĐ-PC09 ngày 17/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

- Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,402 gam;

- Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,082 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Xuân M và Đỗ Hải N khai nhận như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 08/3/2021, M điều khiển xe mô tô Honda Dream BKS: 32-177-K9 đến nhà N chơi rồi rủ N cùng đi mua ma túy để sử dụng, N đồng ý. Sau đó, M chở N đến quán nước tại khu vực trước số 22 Võ Thị Sáu, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội và bảo N chờ để M đi mua ma túy. M một mình điều khiển xe mô tô đến khu vực trước cổng Công viên Tuổi trẻ, phố Thanh Nhàn, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 300.000 đồng tiền ma túy thì được người này đưa cho 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bên trong có chứa ma túy. Sau khi mua được ma túy, M điều khiển xe quay về chỗ N đang chờ và đưa cho N cầm vỏ bao thuốc có chứa ma túy rồi điều khiển xe mô tô chở N đi tìm nơi sử dụng ma túy. Khi đi đến khu vực ngã 3 Hoàng Cầu - Võ Văn Dũng thì bị Tổ công tác kiểm tra, phát hiện, bắt giữ.

Đối với đối tượng bán ma túy cho M, do M khai không biết tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác M để làm rõ.

Đối với chiếc xe mô tô Honda Dream BKS: 32-177-K9 qua xác M chủ sở hữu là anh Tô Hải L (Sinh năm 1967; ĐKHKTT: Số 6/124 ngõ Văn Chương, phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội; là em rể của M). Anh L cho M mượn xe nhưng không biết M sử dụng xe để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Long.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

- Bản cáo trạng số 283/CT-VKSĐĐ, ngày 30/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố Đỗ Hải N, Nguyễn Xuân M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân M mức án từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm tù.

Xử phạt bị cáo Đỗ Hải N mức án từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm tù.

Miễn áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo và xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy ma túy đã thu giữ; trả lại cho Nguyễn Xuân M và Đỗ Hải N 02 điện thoại đã thu giữ.

Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa, Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những căn cứ xác định tội danh:

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ thể hiện:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 08/3/2021, tại khu vực ngã 3 Hoàng Cầu – Võ Văn Dũng, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội; Đỗ Hải N và Nguyễn Xuân M có hành vi tàng trữ trái phép 0,484 gam ma túy loại Heroine với mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác Y19/141 Công an thành phố Hà Nội phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của Đỗ Hải N và Nguyễn Xuân M đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn Xuân M có 03 tiền án chưa được xóa án tích. Bị cáo Đỗ Hải N có 08 tiền án trong đó có 07 tiền án chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này của bị cáo M và bị cáo N thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đã truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm tổn hại sức khỏe con người, là mầm mống của các loại tội phạm khác, nhà nước đã nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ… trái phép chất ma túy, nhưng vì là đối tượng nghiện nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Vì vậy, đối với các bị cáo cần áp dụng một hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của các bị cáo.

Trong vụ án này việc thực hiện tội phạm có đồng phạm, nhưng là đồng phạm giản đơn. Bị cáo Nguyễn Xuân M là người đề xuất và rủ Đỗ Hải N đi mua ma túy, là người bỏ tiền ra mua ma túy, trực tiếp giao dịch mua ma túy nên có vai trò cao hơn Đỗ Hải N, vì vậy mức hình phạt áp dụng đối với Nguyễn Xuân M cao hơn đối với Đỗ Hải N.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo: Các bị cáo đều có nhân thân xấu, có rất nhiều tiền án, tiền sự, chứng tỏ các bị cáo đã được cải tạo, giáo dục bằng pháp luật nhiều lần nhưng vẫn không chịu tu dưỡng, rèn luyện để trở thành công dân tốt mà vẫn tiếp tục phạm tội. Do đó cần xử phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[5] Về áp dụng hình phạt đối với các bị cáo: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã viện dẫn, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo là đối tượng nghiện, không nghề nghiệp; vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 phong bì niêm phong trong có chứa ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy.

01 điện thoại di động Asanzo màu đen thu giữ của Nguyễn Xuân M; 01 điện thoại Nokia 3310 màu đen thu giữ của Đỗ Hải N không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho các bị cáo.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn Xuân M, Đỗ Hải N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1- Về mức hình phạt:

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân M 06 năm 06 tháng tù (sáu năm sáu tháng tù). Thời hạn tù tính từ ngày 08/3/2021.

- Xử phạt bị cáo Đỗ Hải N 06 năm tù (sáu năm tù). Thời hạn tù tính từ ngày 08/3/2021.

2- Về hình phạt bổ sung: Không phạt tiền đối với các bị cáo.

3- Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có chữ ký của đối tượng Nguyễn Xuân M, Đỗ Hải N, chữ ký của giám định viên Trần Ngọc Ch, chữ ký của cán bộ công an phường Ô Chợ Dừa.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Xuân M 01 điện thoại di động Asanzo màu đen.

Trả lại cho bị cáo Đỗ Hải N 01 điện thoại Nokia 3310 màu đen.

Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 325 ngày 24/9/2021 của Cơ quan điều tra Công an quận Đống Đa và Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa.

4- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn Xuân M, Đỗ Hải N mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5- Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 276/2021/HSST

Số hiệu:276/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;