TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 27/2024/HS-ST NGÀY 19/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 23/2024/HSST, ngày 21/3/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2024/QĐXXST-HS, ngày 5/4/2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Ph; Giới tính: Nam; sinh năm 1996, tại tỉnh B;
Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: thôn 3, xã Th, huyện T, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: lao động biển; Cha: Nguyễn X; Mẹ: Nguyễn H; Anh, chị, em ruột: có 02 người, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2009; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại thôn 3, xã Th, huyện T, tỉnh B và có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng: Trần T, sinh năm 1994; Địa chỉ: thôn 02, xã Th, huyện T, tỉnh B. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ ngày 21.12.2023 Nguyễn Ph một mình đi bộ đến khu vực bờ kè biển thuộc thôn 3, xã Th, huyện T gặp một người thanh niên không rõ lai lịch mua 200.000 đồng được 01 gói ma túy. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày Nguyễn Ph cất giấu 01 gói ma túy đá cùng 01 nỏ thủy tinh trong người đi bộ đến căn nhà bỏ hoang tại thôn 1, xã Th huyện T để sử dụng ma túy. Khi đến nơi thì có Trần T cũng đang ở tại nhà hoang. Lúc này Nguyễn Ph lấy gói ma túy đá cùng nỏ thủy tinh để dưới nền nhà gần nơi Nguyễn Ph ngồi để chuẩn bị sử dụng ma túy. Lúc khoảng 23 giờ cùng ngày tổ công tác Công an huyện T phối hợp với Công an xã Th tuần tra đến phát hiện bắt quả tang Nguyễn Ph đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ dưới nền nhà trước mặt Nguyễn Ph đang ngồi 01 đoạn ống thủy tinh, kích thước 19cm, được uốn cong, có một đầu thổi phồng bên trong không có gì và 01 gói nylon không màu hàn kín kích thước (03 x 1,7) cm bên trong chứa tinh thể màu trắng. Nguyễn Ph khai nhận tinh thể màu trắng trong gói nylon là ma túy đá của Nguyễn Ph mang đến nhằm mục đích sử dụng.
Căn cứ bản Kết luận giám định số 1487/KL-KTHS ngày 29/12/2023 của Phòng kỷ thuật hình sự công an tỉnh B kết luận:
Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,2603 gam, là Methamphetamine Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T: Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng số: 30/CT – VKSTP - HS, ngày 20/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T.
Đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Ph từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon không màu, kích thước (03 x 1,7)cm đã cắt lấy mẫu; 0,1982 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1487 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Th và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỷ thuật hình sự - Công an tỉnh B.
Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn ống thủy tinh kích thước 19cm được uốn cong, có 01 đầu thổi phồng được niêm phong trong phong bì số 02 có chữ ký của Nguyễn Ph, Trần T, Mai Xuân T, Đào Ngọc T2, Trần Đức T1, Đặng Hoài V và hình dấu tròn đỏ của Công an xã Th.
Lời nói sau cùng: Bị cáo Nguyễn Ph xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra – Công an huyện T, Viện kiểm sát nhân dân huyện T: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quanTrần T hành tố tụng, ngườiTrần T hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quanTrần T hành tố tụng, ngườiTrần T hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.
[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận: khoảng 20 giờ ngày 21/12/2023 tại khu vực bờ kè biển thuộc thôn 3, xã Th, huyện T, Nguyễn Ph tàng trữ 0,2603 gam Methamphetamine để sử dụng thì bị phát hiện nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về ma túy của Nhà nước, là một trong những nguyên nhân gây ra tệ nạn xã hội và làm lây truyền các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho tính mạng và sức khỏe cộng đồng, gây mất trật tự trị an tại địa Nguyễn Ph.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ph thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo trên cơ sở cân nhắc các tình tiết của vụ án và nhân thân xét thấy rằng cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo trở thành người tốt, công dân có ích cho xã hội, đồng thời qua đó nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Đối với quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận toàn bộ.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 gói nylon không màu, kích thước (03 x 1,7) cm đã cắt lấy mẫu, 0,1982 gam mẫu M còn lại sau giám định và 01 đoạn ống thủy tinh kích thước 19cm được uốn cong, có 01 đầu thổi phồng do đây là vật không có giá trị sử dụng và vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Ph, do chưa rõ nhân thân, lai lịch nên sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ: khoản 1 Điều 268; khoản 1 Điều 269 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ph 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án
[2] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon không màu, hàn kín, kích thước (03 x 1,7)cm đã cắt lấy mẫu; 0,1982 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1487 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Th và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỷ thuật hình sự - Công an tỉnh B.
Tịch thu tiêu hủy 01 đoạn ống thủy tinh kích thước 19cm được uốn cong, có 01 đầu thổi phồng được niêm phong trong phong bì số 02 có chữ ký của Nguyễn Ph, Trần T, Mai Xuân T, Đào Ngọc T2, Trần Đức T1, Đặng Hoài V và hình dấu tròn đỏ của Công an xã Th.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/3/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T)
[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 27/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 27/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về