TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 269/2021/HSST NGÀY 09/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 09/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 270/2021/TLST- HS ngày 20/8/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 273/2021/QĐXXST- HS ngày 27/8/2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Xuân T, tên gọi khác: Không, sinh năm: 1964, tại Hà Nam.
Nơi cư trú: Thôn C H, xã T L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.
Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 5/10; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Phú (đã chết) và bà: Đan Thị Lan (đã chết); có vợ: Nguyễn Thị Phượng, sinh năm 1967 (đã ly hôn) và 03 con, con lớn sinh năm 1985, con nhỏ sinh năm 1992; Tiền án: 03; tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo đã có án tích; không bị xử lý hành chính; bị bắt từ ngày 03/6/2021 "Có mặt".
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ ngày 03/6/2021, bị cáo đi bộ từ nhà đến khu vực bản Na Ngum, xã Thanh Yên, huyện Đ B với mục đích đi tìm mua ma túy về sử dụng. Bị cáo gặp và nhờ một một người đàn ông dân tộc Kinh khoảng 35 tuổi mua được 01 túi ni lon màu xanh bên trong có 14 viên Methamphetamine và 30 gói Heroine với giá tiền là 1.300.000đ. Sau đó bị cáo cất số ma túy mua được vào túi quần bên phải đang mặc rồi về nhà. Hồi 11 giờ 40 phút cùng ngày khi bị cáo đang đứng ở phòng khách trong nhà thì bị tổ công tác Đồn Biên Thanh Luông phối hợp với phòng Phòng chống ma túy và tội phạm bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên và Công an xã T L làm nhiệm vụ vào kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng là 01 gói chứa 14 viên Methamphetamine và 30 gói Heroine tại túi quần bên phải bị cáo đang mặc.
Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 04/6/2021 đã xác định:
- Số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 4,2 gam;
- Số viên nén màu hồng thu giữ của bị cáo có khối lượng là 1,57 gam.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại bản kết luận giám định số: 605/GĐ - PC09 ngày 13/6/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:
- Mẫu chất bột màu trắng được trích từ vật chứng thu giữ của Nguyễn Xuân T gửi giám định là Heroine;
- Mẫu viên nén màu hồng được trích từ vật chứng thu giữ của Nguyễn Xuân T gửi giám định là Methamphetamine;
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng giám định nêu trên.
Tại bản cáo trạng số: 217/CT-VKSĐB ngày 19/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm n, o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự (BLHS).
Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ B vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm n, o Khoản 2 Điều 249/BLHS, Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; Đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS về xử lý vật chứng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Tôi biết hành vi của tôi là vi phạm pháp luật, tôi xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của tôi, tôi xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi của bị cáo: Ngày 03/6/2021 bị cáo đi mua ma túy về sử dụng, khi bị cáo đang ở nhà thì bị bắt quả tang cùng 14 viên Methamphetamine có khối lượng 1,57 gam và 4,2 gam Heroine. Hành vi của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội của tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố. Với hành vi và nhân thân của bị cáo đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích và khối lượng ma túy bị thu giữ thì bị cáo đã phạm vào tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm n, o Khoản 2 Điều 249/BLHS. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.
[2]. Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là rất nghiêm trọng, nên cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.
[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Ngày 12/3/1996 bị cáo bị TAND huyện Đ B xử phạt 16 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 27/9/1999 bị cáo bị Tòa phúc thẩm tại Hà Nội xử phạt 09 năm tù về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 09/7/2014 bị TAND huyện Đ B xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị cáo đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên phải chịu tình tiết định khung hình phạt là: "Tái phạm nguy hiểm".
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.
Để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, HĐXX xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian.
[4]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an huyện Đ B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại Khoản 5 Điều 249/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ có được là do bị cáo nhờ một người đàn ông dân tộc Kinh khoảng 35 tuổi mua hộ, do bị cáo không biết tên và địa chỉ nên CQĐT không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ được.
[7]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.
[8]. Vật chứng: 4,2 gam Heroine, gửi giám định 0,16 gam; 1,57 gam Methamphetamine, gửi giám định 0,23 gam (không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định) cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS, Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS .
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm n, o Khoản 2 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.
1.Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 06 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 03/6/2021.
3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.
4. Về vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS: Tịch thu, tiêu hủy 4,2 gam Heroine, gửi giám định 0,16 gam;
1,57 gam Methamphetamine, gửi giám định 0,23 gam (không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định).
(Vật chứng đã được công an huyện Đ B chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện Đ B ngày 20/8/2021).
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 269/2021/HSST
Số hiệu: | 269/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về