TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 266/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 09 năm 2021; tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 257/2021/TLST-HS ngày 10/09/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 257/2021/QĐXXST-HS ngày 14/09/2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Xuân D - sinh năm 1991 tại tỉnh Thái Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn M, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Xuân B và bà Trần Thị P; có vợ Phạm Huyền T (đã ly hôn), chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 28/06/2021, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 07-7-2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn Ngọc, anh Vũ Quang Mạnh (không triệu tập tới phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 10 phút ngày 28/06/2021, Tổ công tác Công an phường T, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa đền H, đê sông Đ, tổ 29, TN, phường T, thành phố N phát hiện Phạm Xuân D đang điều khiển xe máy biển kiểm soát B2-29748 một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, D đã tự giác giao nộp từ tay trái của D cho Tổ công tác 01 gói nilong màu hồng. Tổ công tác đã mời người làm chứng, mở kiểm tra bên trong là gói giấy bạc màu trắng, trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (D khai là gói Heroine mua về để sử dụng). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa D và mời người làm chứng về trụ sở Công an phường T lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, Tổ công tác còn tạm giữ của D chiếc xe máy biển kiểm soát B2-29748 (đã cũ).
Bản Kết luận giám định số 892/GĐKTHS ngày 02/07/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận vật chứng thu giữ của Phạm Xuân D được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng khối lượng mẫu: 0,117 gam (không phẩy một một bảy gam).
Tại Cơ quan điều tra, Phạm Xuân D khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng và khai nhận nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 11 giờ 50 phút ngày 28-6-2021, D điều khiển xe máy biển kiểm soát B2-29748 một mình từ nhà đến một ngõ nhỏ ở khu vực tổ 29 đường TN, phường T, thành phố N gặp và mua của một người phụ nữ (không biết tên tuổi, địa chỉ) đang đứng trong ngõ 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, D cầm gói ma túy trong tay trái rồi điều khiển xe máy đi về để tìm nơi sử dụng. Khi D đi đến khu vực trước cửa đền H, đê sông Đ, tổ 29, TN, phường T, thành phố N thì bị phát hiện, bắt giữ như đã nêu trên.
Bản Cáo trạng số 260/CT-VKSTPNĐ ngày 08/09/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Phạm Xuân D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà: Bị cáo Phạm Xuân D xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay dùng nhục hình. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ với mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Xuân D theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Phạm Xuân D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 21 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Xuân D có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; lời khai của những người làm chứng; bản Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 10 phút ngày 28/06/2021, tại khu vực trước cửa đền H, đê sông Đ, tổ 29, TN, phường T, thành phố N, Phạm Xuân D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,117 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:
[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về hình phạt: Xét bị cáo Phạm Xuân D phạm tội lần đầu, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ ít nên Hội đồng xét xử chỉ xử phạt bị cáo ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy trong phong bì niêm phong số 892/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.
[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Phạm Xuân D và chiếc xe máy biển kiểm soát B2-29748, do chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo Phạm Xuân D bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Phạm Xuân D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Phạm Xuân D 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 28 tháng 6 năm 2021.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 892/GĐKTHS (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 09-9-2021).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Xuân D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Xuân D được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 266/2021/HS-ST
Số hiệu: | 266/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về