Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toa an nhân dân huyên Y , tỉnh Sơn La xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2022/TLST- HS ngày 08 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27 /2022/QĐXXST- HS ngày 18/4/2022 đối với bị cáo:

Sồng Lao P; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1980, tại huyện Y, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản S, xã C, huyện Y, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa ( học vấn): 1/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Sồng Lao L (Đã chết) và bà Thào Thị V; vợ: Tếnh Thị T; con: bị cáo chưa có con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2022, đến nay có mặt. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 04/01/2022, bị cáo Sồng Lao P đi bộ từ bản S, xã C, huyện Y theo đường dân sinh đến khu vực giáp biên giới nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào thuộc địa phận bản S, xã C, huyện Y mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đến nơi bị cáo P gặp một người đàn ông dân tộc Xinh Mun, quốc tịch Lào, bị cáo không biết tên tuổi địa chỉ, đang đi bộ trên đường, bị cáo hỏi và mua được của người đàn ông này 01 túi nilon màu xanh bên trong có chứa ma túy với giá 270.000 đồng, mua được ma túy quay về nhà. Đến khoảng 08 giờ ngày 05/01/2022, bị cáo lấy 01 viên ma túy ra sử dụng. Số ma túy còn lại bị cáo P gói lại vào túi nilon màu xanh ban đầu rồi cất giấu vào túi quần bên phải, sau đó đi bộ đến nhà Sồng Lao N, sinh năm 1974, trú cùng bản, mục đích rủ N sử dụng ma túy cùng. Trên đường đi thì bị cơ quan điều tra phát hiện, bị cáo Sồng Lao P đã tự giác lấy ma túy giao nộp cho cơ quan điều tra. Vật chứng gồm: 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa 33 viên nén màu hồng và 02 viên nén màu xám.

Ngày 06/01/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng vật chứng thu giữ của bị cáo Sồng Lao P và trích rút mẫu để giám định:

01 gói nilon màu xanh bên trong có 33 viên nén màu hồng, 02 viên nén màu xám nghi là Methamphetamine, 33 viên nén màu hồng có khối lượng là 3,1 gam ; trích ra 05 viên có khối lượng 0,49 gam kí hiệu P1 gửi giám định chất ma túy; còn lại 28 viên nén màu hồng có khối lượng 2,61 gam kí hiệu P3 nhập kho vật chứng, 02 viên nén màu xám có khối lượng là 0,17 gam ký hiệu P2 gửi giám định chất ma túy.

Ngày 10/01/2022 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có kết luận giám định số 236/KLMT. Kết luận: Mẫu gửi giám định kí hiệu P1 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,49 gam. Mẫu gửi giám định kí hiệu P2 không phải là ma túy; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,17 gam Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 3,1 gam; loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số: 19/CT-VKSYC ngày 08 tháng 4 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La truy tố Sồng Lao P về tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa công khai bị cáo Sồng Lao P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đi mua 3,1 gam Methamphetamine về để sử dụng cho bản thân. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung cáo trạng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ, trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa không phát sinh tình tiết mới.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Sồng Lao P từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy: - 01 phong bì niêm phong, bên trong gồm có: 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu; 01 túi nilon màu xanh; mẫu P3 = 2,61 gam.

Án phí: Bị cáo Sồng Lao P là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, xã biên giới, đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Ý kiến của bị cáo Sồng Lao P trình bày: Bị cáo nhất trí như lời luận tội của Viện kiểm sát, không có ý kiến gì thêm.

Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm của bị cáo là vi phạm pháp luật, song hiện nay gia đình bị cáo rất khó khăn, vợ bị cáo mắc bệnh nặng, phải mổ nhiều lần, không ai chăm sóc. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

2 Về hành vi phạm tội của bị cáo Sồng Lao P, có đủ cơ sở khẳng định:

Ngày 05/01/2022 bị cáo Sồng Lao P đã có hành vi đi mua trái phép 3,1 gam loại Methamphethamine của một người đàn ông dân tộc Xinh Mun quốc tịc Lào, không quen biết ở khu vực giáp ranh biên giới Việt – Lào ở gần địa phận bản S , xã C, huyện Y với giá 270.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo mang về nhà cất giấu. Đến ngày 05/01/2022 bị cáo lấy ra sử dụng một viên, số ma túy còn lại bị cáo cho vào túi nilon màu xanh và cất vào túi quần bên phải rồi đi bộ đến nhà Sồng Lao N, sinh năm 1974, trú cùng bản, mục đích rủ N sử dụng ma túy cùng. Trên đường đi thì bị tổ công tác của cơ quan điều tra phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo Sồng Lao P đã tự giác giao nộp toàn bộ vật chứng. Tại bản kết luận giám định số 236, ngày 10/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Tổng khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo Sồng Lao P là 3,1 gam, loại Methamphetamine. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai động cơ, mục đích cất giấu trái phép Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Bản thân bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức được tác hại của việc Tàng trữ, sử dụng ma túy. Nhưng do nghiện chất ma túy nên bị cáo cố ý thực hiện hành vi tội phạm. Trên cơ sở đó đủ điều kiện căn cứ kết luận hành vi cất giấu trái phép Methamphetamine trên của bị cáo Sồng Lao P đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 như cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ. Việc xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không oan sai.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Với khối lượng 3,1 gam Methamphetamine bị cáo cất giấu, thuộc trường hợp phạm nghiêm trọng có mức hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nhận thức và am hiểu pháp luật có phần hạn chế. Nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Sau khi phạm tội khi được cơ quan điều tra vận động bị cáo đã đầu thú tự giác giao nộp vật chứng vụ án. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Nên cần vận dụng điểm s khoản 1 khoản 2 và điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử xét cần áp dụng một mức án tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo. Đồng thời cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội, đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm tại địa phương.

[4] Bị cáo đang bị tạm giam cần tiếp tục tạm giam theo quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thời gian tạm giam được tính vào thời gian thụ hình.

[5] Vê hinh phat bô sung : Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng, cấm đảm nghiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo Sồng Lao P là đối tượng nghiện, sinh sống bằng nghề trồng trọt, không có tài sản có giá trị lớn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: - 01 phong bì niêm phong, bên trong gồm có: 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu; 01 túi nilon màu xanh; mẫu P3 = 2,61 gam. Xét thấy đây là những vật cấm Mua bán, lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

[7] Về các vấn đề khác: Đối với người bán ma túy cho bị cáo Sồng Lao P, theo lời khai của bị cáo đó là người đàn ông dân tộc Xinh Mun quốc tịch Lào, bị cáo không biết tên, địa chỉ. Địa điểm trao đổi mua bán ma túy diễn ra ngoài đường, khu vực biên giới. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác, nên cơ quan điều tra không đủ điều kiện để điều tra xác minh, làm rõ.

[8] Về án phí: Bị cáo Sồng Lao P là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, xã biên giới căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thương vu Quôc hôi, miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuyên bố bị cáo Sồng Lao P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Xử phạt bị cáo Sồng Lao P 27 tháng (Hai mươi bảy tháng) tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2022 là ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1 điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số vật chứng gồm: 01 phong bì niêm phong, bên trong gồm có: 01 phong bì giấy niêm phong vật chứng ban đầu; 01 túi nilon màu xanh; mẫu P3 = 2,61 gam (Chi tiết vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y).

3. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội . Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Sồng Lao Phông.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;