Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 31/03/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2022/HSST ngày 10/02/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2022/QĐXXST-HS ngày 18/03/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn D; Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1986 tại tỉnh Lai Châu.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản Nậm Dòn, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh Lai Châu.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Thái. Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Lò Văn Th (Sinh năm 1959) và con bà: Cà Thị T (Sinh năm 1963).

Hiện bố, mẹ bị cáo đang sinh sống tại bản Nậm Dòn, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh Lai Châu.

Gia đình bị cáo có 05 anh, chị, em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình.

Bị cáo có vợ, con: Vợ Tao Thị H - Sinh năm 1992. Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2015.

Hiện con bị cáo đang sinh sống tại bản Nậm Dòn, xã Nậm Hàng, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/11/2021 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh Lai Châu.(Có mặt tại phiên tòa).

+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông: Lò Văn Th - Sinh năm 1959 Trú tại: Bản Nậm Dòn, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh Lai Châu. (Có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 13 giờ, ngày 10/11/2021, Lò Văn D để trong túi áo khoác bên trái của mình 03 gói ma túy, trong đó: 01 gói được gói bằng mảnh nilon màu hồng là Heroine; 02 gói đều được gói bằng mảnh nilon màu xanh là Methamphetamine, điều khiển xe mô tô BKS 25N1 - 018.01 đi từ bản Noong Kiêng về hướng bản Pa Kéo, thị trấn N, huyện N. Hồi 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi D về đến Km 31 + 200, tỉnh lộ 127, thuộc bản Noong Kiêng, thị trấn N, huyện N, tỉnh Lai Châu thì bị Tổ công tác Công an huyện N phát hiện, bắt quả tang, thu giữ số Heroine, Methamphetamine nêu trên cùng với 01 xe mô tô BKS 25N - 018.01; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Lò Văn D. Mục đích D tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng như đã nêu trên.

Tại kết luận giám định số 61 ngày 11/11/2021 của giám định viên tư pháp theo vụ việc, kết luận: Khối lượng gói chất bột khô màu trắng thu giữ của Lò Văn D có tổng khối lượng 0,14 gam (không phẩy mười bốn gam). 08 (tám) viên tròn màu hồng một mặt có ký hiệu WY có khối lượng là 0,71 gam (không phẩy bẩy mốt gam). Tổng khối lượng các chất là 0,85 gam gửi toàn bộ đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 850/GĐ-KTHS ngày 15/11/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 (một) mẫu chất bột khô màu trắng (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, loại Heroin. (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

02 (hai) mẫu viên nén màu hồng một mặt có ký hiệu WY (ký hiệu M2, M3) gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamin. (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

Tại bản Cáo trạng số: 14/CT-VKS ngày 10 tháng 02 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Lò Văn D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm i khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định: "Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm):

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…….

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

Tại phiên tòa hôn nay Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lò Văn D theo bản cáo trạng và đưa ra các căn cứ, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ, căn cứ vật chứng đã thu giữ 01 (một) gói chất bột khô màu trắng có tổng khối lượng lượng 0,14 gam (không phẩy mười bốn gam) là heroine và 08 (tám) viên tròn màu hồng một mặt có ký hiệu WY có khối lượng là 0,71 gam (không phẩy bẩy mốt gam)là Methamphetamin thu giữ của bị cáo cùng các lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, vị đại diện VKS khẳng định bị cáo đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và đề nghị HĐXX áp dụng Điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS; áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo; miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị xử lý vật chứng.

Về phía bị cáo, tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội không oan sai và bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lò Văn Th có mặt tại phiên toà và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường phần trách nhiệm dân sự.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra huyện N, Điều tra viên. Cơ quan Viện kiểm sát huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng, bị cáo thừa nhận đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội không oan sai.

*Về lời khai của bị cáo: Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo khai nhận rằng: Khi khai nhận trước Cơ quan điều tra, bị cáo không hề bị bức cung, nhục hình; các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, bị cáo được đọc lại và tự nguyện ký nhận và bị cáo thừa nhận đã tàng trữ trái phép tổng khối lượng các chất là 0,85 gam để sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử thấy rằng lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra là tự nguyện, khách quan; biên bản, tài liệu điều tra được thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

* Xét quan điểm luận tội của Kiểm sát viên và ý kiến của bị cáo HĐXX thấy rằng: Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N tham gia phiên tòa đã đưa ra các căn cứ chứng minh về hành vi phạm tội của bị cáo căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ, căn cứ kết quả mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu vật gửi đi giám định. Kết luận giám định số 850/GĐ-KTHS ngày 15/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu đối với mẫu vật thu giữ của bị cáo D. Các lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bởi vì những quan điểm này phù hợp với những tài liệu chứng cứ đã được thu thập khách quan có trong hồ sơ vụ án cùng lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đã cho thấy: Hồi 15 giờ 30 phút, ngày 10/11/2021, tại Km 31 + 200, tỉnh lộ 127, thuộc bản Noong Kiêng, thị trấn Nậm Nhùn, huyện N, tỉnh Lai Châu, Lò Văn D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,14 (không phẩy mười bốn) gam Heroine và 0,71 (không phẩy bảy mươi mốt) gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện N, tỉnh Lai Châu bắt giữ. Căn cứ Điều 4 Nghị định số: 19/2018/NĐ-CP, ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số Điều của Bộ luật hình sự năm 2015 thì khối lượng ma túy Lò Văn D phải chịu trách nhiệm hình sự là 0,85 gam (không phẩy tám mươi lăm gam). Do đó Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Lò Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng khó khăn của huyện N và tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bản thân bị cáo học hết lớp 09/12 nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế. Đây là những tình tiết xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s Khoản 1, 2 Điều 51 BLHS.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có Với những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên vì vậy khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cần xem xét hành vi phạm tội với tính chất của bị cáo đã gây ra, gây bức xúc cho nhân dân địa phương, coi thường pháp luật. Vì vậy phải có hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo và cũng là bài học cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, để cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Không có

[6] Về vật chứng thu giữ gồm:

- 0,14 gam Heroine; 0,71 gam Methamphetamine thu giữ của Lò Văn D gửi giám định toàn bộ, không hoàn lại mẫu vật.

- 01 (một) xe mô tô BKS 25N - 018.01 và 01 giấy đăng ký kèm theo. Kết quả điều tra xác định: Tài sản trên là của ông Lò Văn Th (bố của bị can Lò Văn D). Do vậy, ngày 24/01/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã tiến hành trả lại số tài sản trên cho Lò Văn Th đúng quy định của pháp luật. Vậy HĐXX cần chấp nhận.

- 01 (một) phong bì thư do Công an huyện N lưu hành bên trong chứa vỏ bì và mảnh nilon sau khi mở niêm phong. Hiện vật chứng đang bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Lai Châu [7] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ đều cho thấy bị cáo lao động tự do, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử miễn hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này: - Theo lời khai của Lò Văn D số ma túy thu giữ trong vụ án là do D mua được của một người đàn ông tại thị trấn N, huyện N vào ngày 10/11/2021. Kết quả điều tra không xác định được lai lịch nên không có căn cứ xử lý theo quy định của pháp luật.

- Kết quả điều tra xác định: Lò Văn Th sinh năm 1959, trú tại bản Nậm Dòn, xã Nậm Hàng, huyện N, tỉnh Lai Châu không biết Lò Văn D lấy xe mô tô của mình để dùng vào việc phạm tội, nên không đồng phạm với D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Vậy HĐXX không đặt vấn đề giải quyết các vấn đề nêu trên.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo: Lò Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2/Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS.

Xử phạt bị cáo 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 10/11/2021.

3/Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự miễn hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.

4/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy vì không có giá trị sử dụng: 01 phong bì niêm phong do Công an huyện N phát hành. Mặt trước gói niêm phong có ghi: Vỏ bì và mảnh nilon sau khi mở niêm phong của Lò Văn D, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị bắt ngày 10/11/2021. Mặt sau trên mép dán phong bì niêm phong dùng mảnh giấy trắng đè lên có chữ ký và ghi đầy đủ họ và tên của: Vũ Mạnh Hiếu, Lò Văn Hội, Lường Văn Đức, Nguyễn Bá Đoàn, Lò Văn Tài, Lò Văn D và đóng 02 dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện N, tỉnh Lai Châu ở hai đầu mép dán.

5/Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, báo cho bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;