Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 601/2021/TLST-HS ngày 06/12/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST-HS ngày 06/01/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành P; sinh ngày 26 tháng 12 năm 1999 tại V. Nơi thường trú: 179A/13, ấp T, xã T, huyện L, tỉnh V; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không, Quốc tịch Việt Nam; Con ông Nguyễn Thành H sinh năm 1978 và bà Ngô Kim T, sinh năm 1976. Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình co 03 anh chị em; Bị cáo chưa co vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 31/8/2020, Nguyễn Thành P bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh V ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đến ngày 11/4/2021 bị cáo chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 20/6//2021, chuyển tạm giam theo lệnh số 864 ngày 30/6/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

(Bị cáo - có mặt tại phiên tòa) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu co trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tom tắt như sau:

Nguyễn Thành P là người sử dụng trái phép chất ma túy. Vào khoảng 20 giờ 45 phút ngày 20/6/2021 P đi đến khu vực cổng chào T trên đường H thuộc tổ 1, khu phố T, phường T, thành phố B, tỉnh Đ, gặp một người đàn ông (không rõ lai lịch) đưa 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhờ mua ma túy.

Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày tại khu vực cổng chào T địa chỉ nêu trên, P nhận 01 goi ma túy đựng trong goi thuốc lá do một người (không rõ lai lịch) điều khiển xe taxi (không xác định được biển số, hãng xe) đến giao. P đang cầm goi ma túy vừa mua trên tay phải chuẩn bị tìm nơi sử dụng thì bị Công an Phường T phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thành P khai nhận hành vi phạm tội như trên. Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) goi nilon được hàn kín, bên trong co chứa chất tinh thể màu trắng. Được niêm phong co chữ ký của Nguyễn Thành P và dấu mộc của Công an phường T (Bút lục số: 03-04).

Tại Kết luận giám định số 1330/KLGĐ-PC09 ngày 28/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 0,1361 gam, loại Methamphetamine(Bút lục số: 13).

Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKSBH ngày 01/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Nguyễn Thành P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay:

Bị cáo P khai nhận hành vi tàng trữ ma túy đúng như nội dung Cáo trạng đã thể hiện, giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo với mức hình phạt từ 16 (mười sáu) đến 20 (hai mươi) tháng tù;

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy tang vật là 0,1361 gam ma túy loại Methamphetamine.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không co ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đo các hành vi và quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo co trong hồ sơ vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ, lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác co trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định: Vào lúc 23 giờ 30 phút ngày 20/6/2021, tại khu vực cổng chào T trên đường H thuộc tổ 1 khu phố T, phường T, thành phố B, tỉnh Đ, Nguyễn Thành P đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,1361 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Công an phường T phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015. Việc truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 01/CT-VKSBH ngày 01/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B là co cơ sở đúng người và đúng tội.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Ngày 31/8/2020, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh V ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đến ngày 11/4/2021 bị cáo chấp hành xong, khi trở về nơi cư trú bị cáo không cố gắng rèn luyện bản thân mà còn tiếp tục tàng trữ ma túy để sử dụng nên cần phải co hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không co Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền kiểm soát và quản lý độc quyền đối với các chất ma túy của Nhà nước. Ma túy là chất gây nghiện, hủy hoại sức khỏe, nhân cách của người trực tiếp sử dụng, là nguyên nhân lây lan căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác; bị Nhà nước nghiêm cấm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do nghiện vẫn cố tình phạm tội. Do đo, cần phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới co tác dụng răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội, tỏ ra ăn năn hối cải nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy vật chứng là 0,1361 gam ma túy loại Methamphetamine thu giữ của bị cáo.

[6] Về các nội dung khác liên quan đến vụ án: Đối với đối tượng chưa rõ lai lịch bị cáo nhờ mua ma túy và đối tượng chưa rõ lai lịch bán ma túy cho bị cáo Cơ quan điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[7] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố B phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang là ngày 20/6/2021.

2. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, tịch thu tiêu hủy vật chứng là 0,1361 gam ma túy loại Methamphetamine. Tang vật đang được lưu giữ tại chi cục Thi hành ánh dân sự thành phố B, tỉnh Đ theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09/12/2021 giữa bên giao là đại diện Công an thành phố B và bên nhận là đại diện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo co mặt tại phiên tòa co quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;