Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10/5/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 26/2022/HSST, ngày 21/4/2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2022/QĐXXST-HS ngày 26/4/2022, đối với bị cáo:

Nguyn Văn C- sinh năm 1997; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn P, xã G, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L, con bà Nguyễn Thị L1;

Tiền sự: Không.

Tiền án: Bản án số 07/2019/HSST ngày 25/01/2019 của TAND huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 03 năm 03 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. (Chấp hành xong án phí ngày 15/3/2019, chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/7/2021- chưa được xóa án tích).

Nhân thân: Bản án số 66/2015/HSST ngày 24/9/2015 của TAND huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản. (Chấp hành xong án phí ngày 11/12/2015, chấp hành xong thời gian thử thách của án treo ngày 24/9/2016- đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/01/2022, đến ngày 18/01/2022 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương;

Có mặt tại phiên tòa.

* Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Hà Văn L2- sinh năm 1997. (Vắng mặt). Địa chỉ: xã M, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

- Anh Vũ Văn L3-sinh năm 1987. (Vắng mặt).

Địa chỉ: Khu L, phường T, thành phố Hải Dương.

- Anh Phạm Hồng V-sinh năm 1985. (Vắng mặt). Địa chỉ: Khu V, phường T, thành phố Hải Dương.

* Những người làm chứng:

- Bà Nguyễn Thị Đ- sinh năm 1963. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn C là đối tượng nghiện ma túy. Chiều ngày 16/01/2022, C dùng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh, loại máy đen trắng có bàn phím, lắp sim thuê bao số 0366369231 gọi vào số thuê bao 0382588259 của người tên T là bạn quen biết ngoài xã hội (không rõ họ, tên, tuổi, địa chỉ) để đặt vấn đề mua ma túy Heroine về sử dụng, T đồng ý và hướng dẫn C đi đến thôn P, xã H, huyện Nam Sách để gặp T và giao dịch ma túy. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, C điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Cup màu xanh, không đeo biển số, xe do C mượn của anh Hà Văn L2- sinh năm 1997, trú tại xã M, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La để đi đến thôn P, xã H, huyện Nam Sách gặp T. C đưa cho T số tiền 200.000đ và được T đưa lại 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 gói giấy thiếc bạc chứa chất bột màu trắng. C cầm số ma túy trên tay phải và lái xe đi một đoạn thì bị lực lượng Công an huyện Nam Sách kiểm tra bắt giữ quả tang người cùng tang vật. Thu giữ trên tay phải của C 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long trong có 01 gói giấy thiếc bạc kích thước 1cm x 0,5cm bên trong chứa chất bột màu trắng, C khai là ma túy loại Heroine mục đích giấu để sử dụng.

Vật chứng vụ án: Cơ quan Công an huyện Nam Sách đã lập biên bản thu giữ 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long trong có 01 gói giấy thiếc bạc kích thước 1cm x 0,5cm bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh, loại máy đen trắng có bàn phím, số serial 359989052950855, lắp sim thuê bao số 0366369231; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Cup màu xanh, không đeo biển số. Anh Hà Văn L2 giao nộp 01 biển số xe máy 34-382-H9 và 01 bản phô tô Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Văn T.

Tại Bản kết luận giám định số 189/KLGĐ- PC09 ngày 18/01/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng trong gói giấy bạc màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Văn C, gửi đến giám định khối lượng là 0,230gam là ma túy, loại Heroine.

Bản Cáo trạng số 27/CT-VKS-NS ngày 20/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Văn C thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử mức hình phạt nhẹ nhất.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có đề nghị xin lại chiếc xe.

Người làm chứng bà Đ vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách thực hành quyền công tố, trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng:

Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h (Tái phạm) khoản 1 Điều 52; điểm a, c khoản 1 khoản 2 Điều 47; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 292; Điều 293; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật phí và lệ phí. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 16/01/2022; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 189/KLGĐ- PC09 ngày 18/01/2022 của Phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương bên trong chứa 0,203g Heroine; 01 giấy bạc màu trắng cùng vỏ bao bì mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long; Tịch thu phát mại sung nộp vào ngân sách 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh, loại máy đen trắng có bàn phím, số serial 359989052950855, lắp sim thuê bao số 0366369231; giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Sách thông báo tìm kiếm chủ sở hữu hợp pháp, hết thời hạn thông báo không xác định được chủ sở hữu hợp pháp thì tịch thu sung nộp vào ngân sách nhà nước đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Cup màu xanh, có số khung C70-5513043, số máy C70E-2613400, và 01 biển kiểm soát xe máy số 34-382-H9. Về án phí: Buộc bị cáo C phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Sách, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự có mặt của người tham gia tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh V, anh L3, anh L2, người làm chứng bà Đ được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của những người này nên căn cứ vào các Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt họ.

[3] Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ 10 phút ngày 16/01/2022, tại thôn P, xã H, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, bị cáo Nguyễn Văn C có hành vi cất giấu trên tay phải của mình khối lượng ma túy là 0,230gam loại Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách phát hiện, bắt quả tang.

[4] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn C là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự và ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc cất giữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo Nguyễn Văn C là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy rằng:

5.1. Bị cáo Nguyễn Văn C bị xử phạt xử phạt 03 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 07/2019/HSST ngày 25/01/2019 của TAND huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Chấp hành xong án phí ngày 15/3/2019, chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/7/2021- chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định của điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

5.2. Bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

5.3. Bị cáo bị xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 66/2015/HSST ngày 24/9/2015 của TAND huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Chấp hành xong án phí ngày 11/12/2015, chấp hành xong thời gian thử thách của án treo ngày 24/9/2016- đã được xóa án tích. Nên bị coi là có nhân thân xấu khi quyết định hình phạt.

[6] Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo, đồng thời tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa chung với xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo C nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo C.

[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách có thu giữ của bị cáo gồm 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long trong có 01 gói giấy thiếc bạc kích thước 1cm x 0,5cm bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh, loại máy đen trắng có bàn phím, số serial 359989052950855, lắp sim thuê bao số 0366369231; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Cup màu xanh, không đeo biển số có số khung C70-5513043, số máy C70E-2613400. Anh Hà Văn L2 giao nộp 01 biển kiểm soát xe máy số 34- 382-H9 và 01 bản phô tô Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang tên Nguyễn Văn T.

8.1. Sau khi giám định, cơ quan giám định hoàn lại 0,203g Heroine cùng vỏ bao bì mẫu vật đựng trong phong bì niêm phong số 189/KLGĐ- PC09 của phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương. Heroine là chất cấm tàng trữ, lưu hành; 01 giấy bạc màu trắng cùng vỏ bao bì mẫu vật; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long không còn giá trị sử dụng. Do vậy cần tịch thu, tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

8.2. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh, loại máy đen trắng có bàn phím, số serial 359989052950855, lắp sim thuê bao số 0366369231, là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho bị cáo theo khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

8.3. Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Cup màu xanh, có số khung C70- 5513043, số máy C70E-2613400 và 01 biển kiểm soát xe máy số 34-382-H9. Bị cáo khai mượn xe máy của anh Hà Văn L2, anh L2 mượn của anh Vũ Văn L3, anh L3 nhận sửa chữa cho anh Phạm Hồng V, anh V khai là của ông Phạm Văn T (đã chết năm 2015) cho nhưng không có giấy tờ chứng minh. Theo kết quả tra cứu, chiếc xe trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng; xe máy và biển kiểm soát này không có trong cơ sở dữ liệu phương tiện giao thông cơ giới đường bộ. Như vậy chưa có căn cứ xác định nguồn gốc, chủ sở hữu của chiếc xe và chiếc biển số nên cần giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Sách thông báo tìm kiếm chủ sở hữu hợp pháp, hết thời hạn thông báo không xác định được chủ sở hữu hợp pháp thì tịch thu sung nộp vào ngân sách nhà nước.

[9] Đối với người đàn ông mà bị cáo khai tên Túc đã bán ma túy cho bị cáo ở khu vực thôn P, xã H nhưng không rõ đặc điểm, căn cước nên chưa có căn cứ để xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[11] Về quyền kháng cáo: Áp dụng quy định các Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự đối với bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt và vắng mặt tại phiên tòa.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h (Tái phạm) khoản 1 Điều 52; điểm a, c khoản 1 khoản 2 Điều 47; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Điểm a, c khoản 2, điểm a, b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 292; Điều 293; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Luật phí và lệ phí. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt tạm giữ 16/01/2022, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 189/KLGĐ- PC09 ngày 18/01/2022 của Phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương bên trong chứa 0,203g Heroine; 01 giấy bạc màu trắng cùng vỏ bao bì mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu xanh, loại máy đen trắng có bàn phím, số serial 359989052950855, lắp sim thuê bao số 0366369231.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Sách thông báo tìm kiếm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Cup màu xanh, có số khung C70-5513043, số máy C70E-2613400 và 01 biển kiểm soát xe máy số 34-382-H9 trong thời hạn theo quy định tại Điều 228, 235 Bộ luật Dân sự. Nếu chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp có yêu cầu thì giải quyết theo quy định của pháp luật dân sự. Hết thời hạn trên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu sung nộp vào ngân sách nhà nước.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận giữa Công an huyện Nam Sách và Thi hành án dân sự huyện Nam Sách ngày 06/5/2022).

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

3 Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;