Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 10/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 3 năm 2022, tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2022/TLST-HS ngày 26/01/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Hoàng Văn L, sinh ngày 05/9/1974;

- Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Bắc Kạn.

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 2/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

- Con ông Hoàng Văn S và bà La Thị V cả hai đều (đã chết ).

- Vợ: Dương Thị T và 01 con sinh năm 1998 đều trú tại: Thôn N, xã T, huyện B, tỉnh Bắc Kạn.

- Tiền sự: Không;

- Tiền án: Có 01 tiền án, ngày 07/8/2013 TAND huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 8 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 26/02/2019 chấp hành xong hình phạt tù.

Nhân thân: Ngày 13/8/2002 TAND tỉnh Bắc Kạn xử phạt 7 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Đến nay đã chấp hành xong bản án này.

Ngày 30/5/2021 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị tạm giam từ ngày 30/5/2021 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Kạn đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 19 giờ ngày 30/5/2021 tại tổ Giao Lâm, phường Huyền Tụng, thành phố Bắc Kạn, tổ công tác phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bắc Kạn bắt quả tang Hoàng Văn L về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, thu giữ gồm: 01 vỏ túi thuốc màu bạc có dòng chữ “NAM DƯỢC” màu xanh bên trong có chứa 01 túi nilon màu hồng, bên trong có chứa 01 túi nilon có khóa zip kéo màu đỏ, bên trong có chứa chất màu trắng dạng bột và dạng cục được thu giữ tại túi quần dài đằng trước đang mặc của Hoàng Văn L, tổ công tác niêm phong vào phong bì ký hiệu L1; Thu giữ 01 điện thoại di động NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Viettel; 01 giấy phép lái xe, 01 đăng ký xe mô tô xe máy, 01 xe mô tô YAMAHA EXCITER BKS 97B1 – 135.58, xe đã qua sử dụng và số tiền 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng).

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Kạn thi hành lệnh khám xét nơi ở của Hoàng Văn L tại thôn Nà Tạ, xã Thượng Giáo, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Kết quả khám xét: thu giữ 01 túi nilon loại túi zip có viền màu đỏ bên trong có chứa 03 cục chất bột màu trắng dưới đệm đầu giường ngủ của Hoàng Văn L, niêm phong vào phong bì ký hiệu A2; Thu giữ tại gầm giường ngủ của Hoàng Văn L 14 mảnh giấy có dòng kẻ hình chữ nhật, 03 mảnh nilon (01 màu đen, 01 màu hồng, 01 màu trong suốt), 01 kéo sắt có cán nhựa màu xanh; Thu giữ trong két sắt kê trong phòng ngủ Hoàng Văn L số tiền 8.000.000 đồng (tám triệu đồng).

Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Kạn tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng số chất trắng dạng cục và bột thu giữ được của Hoàng Văn L. Số chất trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu L1 có tổng khối lượng là 37,176g (ba bảy phẩy một bảy sáu gam), sau khi cân niêm phong vào phong bì T1 gửi giám định; khối lượng của 03 cục chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A2 là 0,97g (không phẩy chín bảy gam), sau khi cân niêm phong vào phong bì B1 gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 103/KTHS-MT ngày 03/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận:

- Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định là ma túy, loại heroine, có khối lượng 0,97g (không phẩy chín bảy gam);

- Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong phong bì ký hiệu T1 gửi giám định là ma túy, loại heroine, có khối lượng 37,176g (ba bảy phẩy một bảy sáu gam). Sau giám định mẫu chất còn lại cùng phong bì bao gói cũ niêm phong vào phong bì T103 hoàn trả lại.

Tại Cơ quan điều tra Hoàng Văn L khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 30/5/2021, Hoàng Văn L gọi điện thoại từ số điện thoại 0329709688 của L đến số điện thoại 0378310540 của một người phụ nữ mà L không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể được lưu tên trong danh bạ điện thoại là “Chi.Băck” ở thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, mục đích để hỏi mua ma túy với số tiền 9.000.000đ (chín triệu đồng). Người phụ nữ đồng ý bán ma túy cho Hoàng Văn L đồng thời hẹn gặp L tại thành phố Bắc Kạn để giao dịch. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Hoàng Văn L điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, EXCITER BKS 97B1-135.58 đi từ nhà tại thôn Nà Tạ, xã Thượng Giáo, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến thành phố Bắc Kạn để mua ma túy. Khi đến thành phố Bắc Kạn, Hoàng Văn L tiếp tục gọi điện thoại cho người phụ nữ nói trên và người phụ nữ đó hẹn Hoàng Văn L đến khu vực đường Tây Minh Khai thuộc thôn Phặc Tràng, xã Dương Quang, thành phố Bắc Kạn. Khi L đến địa điểm hẹn thì gặp một người phụ nữ đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang đang đứng đợi. Tại đây, L đưa cho người phụ nữ nói trên số tiền 9.000.000đ (chín triệu đồng), người phụ nữ cầm tiền và bán cho Hoàng Văn L 01 (một) gói ma túy đựng trong vỏ túi thuốc màu bạc có chữ “Nam Dược”, sau đó người phụ nữ bỏ đi. Hoàng Văn L cất giấu số ma túy mua được vào túi quần bên phải Hoàng Văn L đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Trên đường về đến khu vực tổ Giao Lâm, phường Huyền Tụng, thành phố Bắc Kạn thì bị tổ công tác phòng CSĐTTP về Ma túy Công an tỉnh Bắc Kạn bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ trong quá trình khám xét cũng do Hoàng Văn L mua với người phụ nữ nói trên với số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) trước ngày 30/5/2021 khoảng 3 đến 4 ngày. Mục đích Hoàng Văn L tàng trữ trái phép chất ma túy là để sử dụng cho bản thân, không có mục đích khác.

Năm 2013, Hoàng Văn L bị Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 08 tám năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đến ngày 26/02/2019 chấp hành án xong, đến nay chưa được xóa án tích. Do vậy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Hoàng Văn L ngày 30/5/2021 thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Đối với 0,97g (không phẩy chín bảy gam) ma túy thu giữ tại nhà Hoàng Văn L trong quá trình khám xét, là ma túy của L mua trước ngày 30/5/2021 khoảng 3 đến 4 ngày với chính người phụ nữ đã bán ma túy cho L ngày 30/5/2021. Như vậy, Hoàng Văn L đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy hai lần, đây là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bị cáo phải chịu.

Về vật chứng: Các vật chứng được nhập kho vật chứng bảo quản theo quy định gồm: các phong bì niêm phong T103, A3, T2, B2, 01 điện thoại di động NOKIA màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim Viettel, 01 giấy phép lái xe mang tên Hoàng Văn L và số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng).

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER BKS 97B1-135.58 và chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy tạm giữ trong quá trình bắt quả tang, quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là của anh Dương Văn Nội, sinh năm 1979, trú tại thôn Nà Tạ, xã Thượng Giáo, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Ngày 30/5/2021, Hoàng Văn L mượn xe mô tô của ông Nội đi đâu, làm gì ông Nội không biết. Ngày 09/12/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn đã trả lại xe mô tô trên cho ông Dương Văn Nội.

Đối với số tiền 8.000.000đ (tám triệu đồng) tạm giữ trong quá trình khám xét, qua điều tra xác định số tiền trên là của bà Dương Thị Thược, sinh năm 1977, trú tại thôn Nà Tạ, xã Thượng Giáo, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, bị can không có đóng góp và không biết đến số tiền này. Ngày 09/12/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn đã trả lại số tiền trên cho bà Dương Thị Thược.

Bản cáo trạng số 06/CT - VKSTPBK ngày 24/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố Hoàng Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 BLHS 2015, điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

…..

b) Heroine…có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

…..

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh và điều khoản như đã viện dẫn ở trên đồng thời đề nghị HĐXX xử lý như sau:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm g, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 12 năm đến 13 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2021.

2. Hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS 2015.

Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T103;

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A3;

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T2;

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu B2;

+ 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 0337829048.

Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng.

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án: 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng), số còn thừa trả lại cho bị cáo.

Trả lại cho bị cáo L 01 giấy phép lái xe mang tên Hoàng Văn L.

Về án phí buộc bị cáo L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định:

Ngày 30/5/2021, tại khu vực tổ Giao Lâm, phường Huyền Tụng, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, Hoàng Văn L đã có hành vi tàng trữ 37,176g (ba bảy phẩy một bảy sáu gam) ma túy, loại Heroine bị bắt quả tang và trước đó Hoàng Văn L còn tàng trữ 0,97 gam (không phảy chín bảy gam) ma túy loại Heroine tại nhà mình ở thôn Nà Tạ, xã Thượng Giáo, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn với mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổng khối lượng ma túy Hoàng Văn L tàng trữ của hai lần là 38,146g (ba tám phẩy một bốn sáu gam). Sau khi bắt giữ và khám xét Công an thành phố Bắc Kạn đã tạm giữ người cùng toàn bộ tang vật.

Hành vi của bị cáo Hoàng Văn L đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 BLHS. Việc truy tố, xét xử bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Về nhân thân: Bị cáo Hoàng Văn L là người có nhân thân xấu: có 01 tiền án, ngày 07/8/2013 TAND huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn xử phạt 8 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngoài ra năm 2002 bị TAND tỉnh Bắc Kạn xử phạt 07 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Về tình tiết tăng nặng: Trong khoảng thời gian ngắn bị cáo L hai lần tàng trữ ma túy do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là phạm tội hai lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS; Bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích mà lần phạm tội trước thuộc trường hợp rất nghiêm trọng lần phạm tội này cũng thuộc trường hợp rất nghiêm trọng do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Tuy nhiên, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Vật chứng gồm:

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T103, mặt trước có dòng chữ: “vụ Hoàng Văn L (1974) tàng trữ trái phép chất ma túy”, mặt sau có hai chữ ký không đọc được, hai dấu hình tròn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn. Tình trạng niêm phong còn nguyên vẹn.

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A3, mặt sau phong bì có dòng chữ “Dương Thị Thược” 01 dòng chữ “Hoàng Mạnh Thắng”, có 04 chữ ký không đọc được và hai dấu hình tròn mầu đỏ của Công an xã Thượng Giáo, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Tình trạng niêm phong còn nguyên vẹn.

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T2, mặt sau phong bì có dòng chữ “Phạm Bá Thức”, 01 dòng chữ “Hoàng Văn L”, 01 dòng chữ “Nông Quốc Toản”, 01 dòng chữ “Trần Văn Đông”, có 07 chữ ký không đọc được và hai dấu hình tròn mầu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Kạn. Tình trạng niêm phong còn nguyên vẹn.

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu B2, mặt sau phong bì có dòng chữ “ Hoàng Văn L”, 01 dòng chữ “Nông Thị Quế”, 01 dòng chữ “Trần Văn Đông”, 01 chữ “ L”, có 06 chữ ký không đọc được và hai dấu hình tròn mầu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Kạn. Tình trạng niêm phong còn nguyên vẹn.

+ 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 0337829048.

Số vật chứng trên là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng, bị cáo sử dụng liên lạc để mua ma túy do vậy cần tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) của bị cáo không liên quan đến vụ án cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án, số còn thừa trả lại cho bị cáo.

Trả lại cho bị cáo L 01 giấy phép lái xe hạng AI số AD647124 mang tên Hoàng Văn L.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER BKS 97B1-135.58 và chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy tạm giữ trong quá trình bắt quả tang, quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên là của anh Dương Văn Nội, sinh năm 1979, trú tại thôn Nà Tạ, xã Thượng Giáo, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Ngày 30/5/2021, Hoàng Văn L mượn xe mô tô của ông Nội đi đâu, làm gì ông Nội không biết. Ngày 09/12/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn đã trả lại xe mô tô trên cho ông Dương Văn Nội là có căn cứ, đúng quy định.

Đối với số tiền 8.000.000đ (tám triệu đồng) tạm giữ trong quá trình khám xét, qua điều tra xác định số tiền trên là của bà Dương Thị Thược, sinh năm 1977, trú tại thôn Nà Tạ, xã Thượng Giáo, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, bị cáo không có đóng góp và không biết đến số tiền này. Ngày 09/12/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Bắc Kạn đã trả lại số tiền trên cho bà Dương Thị Thược là đúng quy định.

[5] Về những vấn đề khác liên quan đến vụ án:

Đối tượng bán ma túy cho Hoàng Văn L là một người phụ nữ, có số điện thoại thuê bao 0378310540, được lưu tên trong danh bạ điện thoại của L là “Chi.Băck” nhưng không rõ lai lịch, địa chỉ. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, nhưng đến nay chưa có kết quả trả lời của Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông quân đội (Viettel) về thông tin của chủ thuê bao số điện thoại nói trên, nên chưa có căn cứ để xử lý. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Hoàng Văn L 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2021.

2. Hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS 2015.

* Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T103, mặt trước có dòng chữ: “vụ Hoàng Văn L (1974) tàng trữ trái phép chất ma túy”, mặt sau có hai chữ ký không đọc được, hai dấu hình tròn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn. Tình trạng niêm phong còn nguyên vẹn.

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu A3, mặt sau phong bì có dòng chữ “Dương Thị Thược” 01 dòng chữ “Hoàng Mạnh Thắng”, có 04 chữ ký không đọc được và hai dấu hình tròn mầu đỏ của Công an xã Thượng Giáo, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Tình trạng niêm phong còn nguyên vẹn.

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu T2, mặt sau phong bì có dòng chữ “Phạm Bá Thức”, 01 dòng chữ “Hoàng Văn L”, 01 dòng chữ “Nông Quốc Toản”, 01 dòng chữ “Trần Văn Đông”, có 07 chữ ký không đọc được và hai dấu hình tròn mầu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Kạn. Tình trạng niêm phong còn nguyên vẹn.

+ 01 (một) phong bì niêm phong ký hiệu B2, mặt sau phong bì có dòng chữ “ Hoàng Văn L”, 01 dòng chữ “Nông Thị Quế”, 01 dòng chữ “Trần Văn Đông”, 01 chữ “ L”, có 06 chữ ký không đọc được và hai dấu hình tròn mầu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Kạn. Tình trạng niêm phong còn nguyên vẹn.

+ 01 (một) sim điện thoại số thuê bao 0337829048.

Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã qua sử dụng.

Tạm giữ để đảm bảo thi hành án: 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng), số còn thừa trả lại cho bị cáo.

Trả lại cho bị cáo L 01 giấy phép lái xe hạng AI số AD647124 mang tên Hoàng Văn L.

(Tình trạng, số lượng vật chứng theo như biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/02/2022 giữa Công an thành phố Bắc Kạn và chi Cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn).

4. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hoàng Văn L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;