Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 256/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 256/2021/HS-ST NGÀY 23/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 229/2021/TLST - HS, ngày 02 tháng 8 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 242/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Nhật P (M) - Sinh ngày 04 tháng 01 năm 1999, tại tỉnh Đắk Lắk.

Trú tại: Thôn H, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Thiện H và con bà: Nguyễn Thị Hoài T. Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 30/12/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 339/2016/HSST.

Bị cáo bị bắt ngày 02 tháng 02 năm 2021 – Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trần Viết T – Văn phòng luật sư Minh T thuộc đoàn luật sư tỉnh Đăk Lăk, bào chữa cho bị cáo theo chỉ định (Xin vắng mặt và có gửi bản bào chữa).

Cư trú: Số m, đường H, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Ông Trần Thiện H– Sinh năm:

1966 (Cha đẻ của bị cáo) Cư trú: Thôn H, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Hoài T – Sinh năm: 1973 Cư trú: Thôn H, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 02/02/2021, Trần Nhật P điều khiển xe mô tô hiệu Honda Air Blade BKS 47B2 – 779.46 đến khu vực nghĩa địa cũ đường P, phường T, thành phố B để mua ma túy sử dụng. Tại đây, P g gặp 01 người nam giới (không rõ lai lịch) và 01 người nữ tên Q (không rõ lai lịch) mua 700.000 đồng ma túy được 02 gói ma túy đá. Sau đó, P cất 01 gói trong cốp xe mô tô, còn 01 gói P cất giấu trong người rồi điều khiển xe đi chơi. Đến khoảng 23 giờ 20 phút cùng ngày, khi đến trước địa chỉ số 16, đường P, phường T, thành phố B thì bị lực lượng Công an phường T phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần phía trước bên trái P đang mặc 01 gói nylon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể (ký hiệu M1), thu giữ trong cốp xe mô tô hiệu Honda Air Blade BKS 47B2 – 779.46 01 gói nylon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể (ký hiệu M2) đã được niêm phong theo quy định pháp luật.

Tại Kết luận giám định số 195/GĐMT-PC09 ngày 08/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận:

Phong bì M1: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,2028 gam.

Phong bì M2: Chất rắn dạng tinh thể đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,0968 gam.

Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,1810 gam (Phong bì M1);

0,0813 gam (Phong bì M2) đã được niêm phong.

Tại Kết luận giám định pháp y tâm thần số 142/KLGĐ ngày 30/6/2021 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên kết luận:

Trước, trong, khi phạm tội (ngày 02/02/2021) và hiện tại (tại thời điểm giám định) Trần Nhật P bị: Rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng ma túy và các chất tác động tâm thần khác (F19.5-ICS 10). Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của bị cáo đúng như nội dung trên, bị cáo đồng ý với kết luận giám định và không có ý kiến gì.

Bản cáo trạng số: 263/CT-VKS ngày 30/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thanh phô Buôn Ma Thuột , tỉnh Đăk Lăk đã truy tố bị cáo Trần Nhật P (M) về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột sau khi phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo Trần Nhật P (M) và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản cáo trạng 263/CT-VKS ngày 30/7/2021 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s, q khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Nhật P (M) từ 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù đến 01(Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị tuyên tịch thu, tiêu hủy 0,1810 gam Methamphetamine (Phong bì M1); 0,0813 gam Methamphetamine (Phong bì M2) đã được niêm phong còn lại sau giám định được niêm phong trong gói số 195/GĐMT – PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk, 02 bật lửa, 01 bộ dụng cụ sử ma túy đá, 03 ống nhựa, 01 chiếc kéo nhỏ là tang vật của vụ án. Chấp việc việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột trả lại chiếc xe mô tô hiệu Honda Air Blade BKS 47B2 – 779.46 cho bà Nguyễn Thị Hoài T (mẹ ruột của bị cáo P) nhận quản lý sử dụng. Quá trình điều tra đã xác định, việc bị cáo P sử dụng chiếc xe làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội bà T hoàn toàn không biết nên không đề cập xem xét xử lý là phù hợp.

Luật sư có bản luận cứ bào chữa với nội dung: Về tội danh cơ bản nhất trí với điều khoản của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội. Bị cáo phạm tội do một phần tác động của yếu tố khách quan như việc mua bán, cung cấp ma túy vẫn lén lút diễn ra trong xã hội dẫn đến bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm thỏa mãn cơn nghiện của bản thân bị cáo. Xuất phát từ việc sử dụng ma túy dẫn đến bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, q khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự. Quyết định một hình phạt hợp lý đúng người, đúng tội, đủ giáo dục răn đe đối với hành vi phạm tội của bị cáo và tạo điều kiện cho bị cáo sửa chữa sai lầm trở thành công dân có ích cho xã hội.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo, ông Trần Thiện H khai: Bà Nguyễn Thị Hoài T là mẹ đẻ của bị cáo P và là người đại diện hợp pháp cho bị cáo P nhưng bà H bị đau mắt nên ông H là cha đẻ của bị cáo là người đại diện hợp pháp cho bị cáo tham gia phiên tòa. Gia đình biết bị cáo P nghiện ma túy cách đây khoảng 01 năm, bị cáo P bị hạn chế khả năng nhận thức. Gia đình có đưa bị cáo đi chữa cai nghiện, bị cáo đã cắt cơn nghiện được một thời gian lại tái nghiện. Bị cáo hiện đang bị hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi nên xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ 20 phút ngày 02/02/2021, tại trước số nhà M, đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk. lực lượng Công an phường T, thành phố B phát hiện bắt quả tang Trần Nhật P có hành vi tàng trữ trái phép 0,2996 gam ma túy loại Methamphetamine là phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[3] Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nguy hiểm và gây tác hại xấu nhiều mặt cho xã hội và ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước đối với các loại dược chất ma túy. Bị cáo nhận thức được rằng các loại dược chất ma túy thuộc quyền quản lý của Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng có thẩm quyền và phải tuân theo những trình tự thủ tục nghiêm ngặt, mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy đều bị trừng trị nghiêm khắc. Đồng thời bị cáo cũng biết được rằng chất ma túy là loại chất gây nghiện nặng làm hủy hoại đến sức khỏe của con người và cũng là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội cũng như các tội phạm khác. Nhưng chỉ vì thỏa mãn cơn nghiện của bản thân nên bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy cho nên đối với bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc và buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, nhằm phát huy tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và góp phần răn đe phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này trong tình hình xã hội hiện nay.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt: Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng nào tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân xấu nên khi lượng hình cũng cần xem xét nhân thân của bị cáo. Tình tiết giảm nhẹ, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình và bị cáo là người bị rối loạn tâm thần hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi do sử dụng chất ma túy. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, q khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối với nguồn ma túy, bị cáo Trần Nhật P khai mua của người nữ giới tên Q tại khu vực nghĩa địa cũ đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk. Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng nên tách hành vi của đối tượng ra khỏi vụ án để tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.

Trong vụ án có bà Nguyễn Thị Hoài T là người đã cho bị cáo P mượn chiếc xe mô tô hiệu Honda Air Blade BKS 47B2 – 779.46 nhưng bà T không biết việc bị cáo P sử dụng chiếc xe làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xem xét xử lý là phù hợp.

[5] Về vật chứng: Đối với 0,1810 gam Methamphetamine (Phong bì M1)0,0813 gam Methamphetamine (Phong bì M2) đã được niêm phong còn lại sau giám định được niêm phong trong gói số 195/GĐMT – PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk và 02 bật lửa, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 03 ống nhựa, 01 chiếc kéo nhỏ nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Honda Air Blade BKS 47B2 – 779.46 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột trả lại cho bà Nguyễn Thị Hoài T là chủ sở hữu nhận quản lý sử dụng. Bà Nguyễn Thị Hoài T đã nhận lại xe và không có yêu cầu gì nên không đặt ra để giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s, q khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Nhật P (M) phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” Xử phạt: Bị cáo Trần Nhật P (M) 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt ngày 02/02/2021

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu, tiêu hủy 0,1810 gam Methamphetamine (Phong bì M1)0,0813 gam Methamphetamine (Phong bì M2) đã được niêm phong còn lại sau giám định được niêm phong trong gói số 195/GĐMT – PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk, 02 bật lửa, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 03 ống nhựa, 01 chiếc kéo nhỏ.

(Vật chứng có đặc điểm, số lượng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 04 tháng 8 năm 2021 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).

Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Trần Nhật P phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo có mặt phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 256/2021/HS-ST

Số hiệu:256/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;