TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 25/2024/HS-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 3 năm 2024 Tòa án nhân dân thành phố C xét xử sơ thẩm công khai tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 27/2024/HSST ngày 25 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2024/QĐXXST-HS ngày 15/3/2024 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Vàng Văn Y; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 19/5/1983, tại tỉnh C; Nơi ĐKHKTT: bản C, xã S, thành phố C, tỉnh C; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Giáy; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Vàng Văn K (sinh năm 1961) và con bà Vàng Thị V (sinh năm 1961); vợ: Thào Thị T (sinh năm 1983); con: bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2002; Tiền án, tiền sự: không.
Về nhân thân: Ngày 18/9/2014 bị TAND thành phố C xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” và xử phạt 26 tháng tù tại bản án số 58/2014/HSST. Ngày 24/6/2016 Vàng Văn Y đã chấp hành xong án phạt tù và các quyết định khác của bản án nên đã được xóa án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/12/2023 đến nay, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ, Công an thành phố C, tỉnh C cho. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 25/12/2023, Vàng Văn Y đi bộ từ nhà của mình đến lán trại của Trần Văn S (sinh năm 1987, cũng trú tại: bản C, xã S) để hỏi mua Heroine về sử dụng, S đồng ý. Qua trao đổi mua bán, Y đã mua được của S 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu xanh với giá 200.000 đồng. Mua được Heroine, Y đem gói Heeroine về nhà rồi cấu một ít để sử dụng bằng hình thức hít. Sử dụng xong, Y gói số Heroine còn lại như cũ và cất giấu dưới gầm bàn uống nước trong phòng khách để sử dụng dần.
Hồi 12 giờ 20 phút cùng ngày, khi Vàng Văn Y đang ở nhà một mình thì có tổ công tác Công an thành phố C phối hợp với Công an xã San Thàng, thành phố C đến nhà Y để kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, Y đã tự giác lấy 01 gói Heroin được gói ngoài bằng mảnh nilon màu xanh cất giấu dưới gầm bàn uống nước trong phòng khách giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang với Vàng Văn Y và thu giữ 01 gói Heroin của Y giao nộp.
Tại Kết luận giám định số 59/KLGĐ ngày 26/12/2023 của Người giám định tư pháp theo vụ việc và Kết luận giám định số 67/KL-KTHS ngày 27/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C, kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của Vàng Văn Y trong quá trình bắt quả tang ngày 26/12/2023 có khối lượng là 0,28 gam. Mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa Vàng Văn Y thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Các vấn đề khác của vụ án:
Theo lời khai của Vàng Văn Y, nguồn gốc số Heroine mà Y tàng trữ là mua của ông Trần Văn S, trú cùng bản với Y. Cơ quan điều tra đã nhiều lần xác minh nhưng S không có mặt tại địa phương. Ngoài lời khai của Y Cơ quan điều tra cũng không thu thập được thêm tài liệu chứng cứ khác nên chưa đủ chứng cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với S, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra và làm rõ đối với đối tượng này.
Bản Cáo trạng số 12/CT - VKSTP ngày 08/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C đã truy tố Vàng Văn Y về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các kết luận giám định và bản Cáo trạng nêu trên.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vàng Văn Y từ 17 đến 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 26/12/2023.
Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 01 mảnh nilon màu xanh.
Đề nghị Hội đồng xét xử, xử lý án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Vàng Văn Y không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C.
Lời nói sau cùng: bị cáo Vàng Văn Y đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:
Trên cơ sở lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các vật chứng thu giữ được, có đủ cơ sở để khẳng định:
Vào hồi 12 giờ 20 phút ngày 26/12/2023 tại bản C, xã S, thành phố C, tỉnh C Vàng Văn Y đang tàng trữ trái phép 0,28 gam Heroine, với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác của Công an thành phố C phối hợp với Công an xã San Thàng, thành phố C phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.
Bị cáo Vàng Văn Y là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy: Hành vi của bị cáo Vàng Văn Y cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điều khoản này quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm… c, Heroine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam;
… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, …hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo Y đã bị Tòa án xét xử 01 lần và phải đi chấp hành án nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do công việc và thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị để đảm bảo thi hành hình phạt bổ sung. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng của vụ án:
Đối với 0,28 gam Heroine thu giữ của Y, Cơ quan điều tra đã gửi toàn bộ đi giám định và không hoàn lại mẫu vật, còn lại 01 mảnh nilon màu xanh, dùng để gói ma túy là vật liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và là vật không có giá trị xét cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[6] Quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là đúng pháp luật, tuy nhiên về mức đề xuất hình phạt đối với bị cáo là nghiêm khắc so với tính chất hành vi của bị cáo, nên Hội đồng xét xử có thể xem xét hình phạt thấp hơn mức đề xuất của đại diện Viện kiểm sát.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135, Khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vàng Văn Y phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vàng Văn Y 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2023.
3. Về vật chứng của vụ án:
- Tịch thu, tiêu hủy 01 mảnh nilon màu xanh.
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 15 phút ngày 11/3/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C với Chi Cục thi hành án dân sự thành phố C).
4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 25/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 25/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về