Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Phạm Tiến D, sinh ngày 02/9/1981 tại Thái Bình.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn 9, xã V, huyện T, tỉnh Thái Bình.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Phạm Quang T và bà Phạm Thị N.

Có vợ đã ly hôn là Phạm Thị K, có 01 con sinh năm 2006 Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Tháng 3/1999 đến tháng 05/2001 tham gia nghĩa vụ quân sự tại căn cứ Sân bay Cần Thơ và Sân bay Biên Hòa.

- Quyết định số 1732/QĐ/XPVPHC ngày 16/6/2011 của chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Thái Bình vè việc áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh – Giáo dục – Lao động Xã hội thời hạn 12 tháng, chấp hành xong ngày 09/6/2012.

- Quyết định số 171 ngày 15/7/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở cai nghiện, thời hạn 24 tháng, chấp hành xong ngày 10/7/2015. Ngày 15/6/2015 Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 176/QĐ – UBND về việc quản lý sau cai nghiện ma túy tại nơi cư trú đối với Phạm Tiến Dũng, thời hạn 24 tháng kể từ ngày 11/7/2015.

- Bản án số 01/HSPT ngày 13/02/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình sửa bản án số 20/HS – ST ngày 15/10/2003 của TAND huyện Vũ Thư, xử phạt bị cáo 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

- Bản án số 180/2016/HSST ngày 12/9/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt ngày 31/5/2018, chấp hành xong án phí ngày 09/01/2017.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/11/2021 đến ngày 11/11/2021 chuyển tạm giam đến nay

- Người chứng kiến:

+ Anh Dương Ngọc H, sinh năm 1985, nơi cư trú: Số nhà 10, tổ 05, phường X, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt).

+ Anh Trần Văn T, sinh năm 1989, nơi cư trú: Thôn L, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 30 phút ngày 08/11/2021, tại khu vực đường Kỳ Đồng, tổ 04, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, Phạm Tiến D bị Công an thành phố Thái Bình bắt quả tang đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Trước sự chứng kiến của hai người chứng kiến, D đã tự giác đưa từ lòng bàn tay trái ra giao nộp cho tổ công tác Công an thành phố Thái Bình 02 gói ma túy bên ngoài được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, D khai đây là Hêrôin, D vừa mua trước đó, tại khu vực phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình, của một người phụ nữ không biết tên, tuổi, địa chỉ với giá 400.000 đồng để sử dụng cho bản thân.

Kiểm tra người bị cáo, thu tại túi quần bên phải của Dũng 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng đã qua sử dụng, thu tại túi quần hậu bên phải của D 01 ví giả da màu nâu, 01 căn cước công dân mang tên Phạm Tiến D.

Tại bản Kết luận giám định số 418/KLGĐMT-PC09 ngày 09/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi: “ Vật chứng quản lý của Phạm Tiến D, sinh năm 1981, đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn 09, xã V, huyện T, tỉnh Thái Bình ngày 08/11/2021” gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,2155 gam (không phẩy hai nghìn một trăm năm mươi lăm gam).

Tại bản cáo trạng số 27/CT – VKSTPTB ngày 21/01/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Phạm Tiến D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Tiến D khai nhận toàn bộ hành vi như cáo trạng đã mô tả. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Tiến D như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Tiến D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Tiến D từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/11/2021, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu của Phạm Tiến D hoàn trả sau giám định. Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng đã qua sử dụng, 01 ví giả da màu nâu, 01 căn cước công dân mang tên Phạm Tiến D.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình đã truy tố và không tranh luận về hình phạt cũng như các vấn đề khác.

Bị cáo nói lời sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra và truy tố cũng như tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến và còn được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên có cơ sở khẳng định: Vào hồi 10 giờ 30 phút ngày 08/11/2021, tại khu vực đường Kỳ Đồng, tổ 04, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, Phạm Tiến D có hành vi tàng trữ trái phép 0,2155 gam ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, gây tác hại xấu đến xã hội. Bị cáo nhận thức được hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu không chính đáng của bản thân nên vẫn cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Hành vi của Phạm Tiến D đã phạm vào tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

...

c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam...”.

[3] Viện kiểm sát thành phố Thái Bình truy tố bị cáo Phạm Tiến D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo D có nhân xấu nhưng không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo khai báo thành khẩn, có thời gian tham gia quân đội, đóng góp công sức vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự còn quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm", xét bị cáo D làm công việc tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Theo quy định tại Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Số ma túy tịch thu của Phạm Tiến D hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành, tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng đã qua sử dụng, 01 ví giả da màu nâu và 01 căn cước công dân mang tên Phạm Tiến D không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[7] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy, Phạm Tiến D khai mua của một người phụ nữ không rõ tên, địa chỉ ở khu vực phường Trần Hưng Đạo, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 46; 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tiến D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Phạm Tiến D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/11/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu của Phạm Tiến D còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số: 418/KLGĐMT - PC09 ngày 09/11/2021, mẫu vật hoàn trả sau giám định, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. Trả lại bị cáo Phạm Tiến D 01 điện thoại di động Iphone 5 màu trắng đã qua sử dụng, 01 ví giả da màu nâu và 01 căn cước công dân mang tên Phạm Tiến D.

(Vật chứng có đặc điểm mô tả như trong Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 21/01/2022).

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Tiến D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Tiến D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 16/02/2022.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a và 9 Luật thi hành án dân sự;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;