Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 20/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 01 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Phàn Dâu Q; sinh năm: 1982; nơi sinh: huyện Phong T, tỉnh Lai Châu; nơi cư trú: bản Ngài C, xã Nậm Cha, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Dao; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Phàn Phủ L và bà Lù Thị M; có vợ thứ nhất là Chang Thị L (sinh năm: 1986; không đăng ký kết hôn, không còn chung sống với nhau từ năm 2008) và 01 con (sinh năm 2006), có vợ thứ hai là Phàn Thị C (sinh năm: 1990) và 01 con (sinh năm 2010); tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ từ ngày 09 tháng 4 năm 2021 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Công H, là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Phàn Thị C; sinh năm: 1990; nơi cư trú: bản Ngài C, xã Nậm Cha, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 08 tháng 4 năm 2021 bị cáo Phàn Dâu Q một mình điều khiển xe mô tô (xe máy) nhãn hiệu Yamaha, loại Jupiter RC, mang biển kiểm soát 25B1 – 355.77 của gia đình Q đi từ nhà ở bản Ngài C, xã Nậm Cha đến bản Hoàng Hồ, xã Phăng Sô Lin, huyện Sìn Hồ để tìm mua ma túy mang về sử dụng. Khoảng 16 giờ cùng ngày, tại bản Hoàng Hồ, xã Phăng Sô Lin, Q gặp một người đàn ông dân tộc Dao, không biết tên, tuổi, địa chỉ. Qua nói chuyện, trao đổi, Q hỏi và mua được của người đàn ông đó 01 gói Heroine với giá 50.000 đồng. Q đã sử dụng bằng hình thức trích hết số Heroine này. Sau đó, Q tiếp tục đưa cho người đàn ông 3.000.000 đồng để mua Heroine, người đàn ông nhận tiền rồi bảo Q đi đến khu phố 1, thị trấn Sìn Hồ đợi lấy ma túy. Q đi đến khu vực đồi thông thuôc khu 1, thị trấn Sìn Hồ đợi được khoảng 01 giờ thì người đàn ông Q mua Heroine đến và đưa cho Q 01 gói nilon màu trắng, Q mở ra kiểm tra thì thấy bên trong có thêm 02 lớp nilon màu đen được sử dụng để gói 02 cục Heroine. Q dùng tay cấu lấy một ít Heroine để sử dụng bằng hình thức trích, số Heroine còn lại Q gói như cũ rồi cầm trên tay trái và điều khiển xe máy đi về nhà.

Vào hồi 20 giờ 15 phút cùng ngày, khi Q điều khiển xe máy đi đến khu vực giáp ranh giữa bản Nậm Pẻ và bản Nậm Chăng, xã Nậm Cha, huyện Sìn Hồ, thì gặp lực lượng Công an xã Nậm Cha, huyện Sìn Hồ đang làm nhiệm vụ, Q đã ném gói Heroine đang cầm ở tay trái lên phía taluy dương rồi tăng ga xe máy để bỏ chạy được 15 mét thì bị Công an xã Nậm Cha, huyện Sìn Hồ khống chế. Qua kiểm tra, Công an xã Nậm Cha thu giữ trên người của Q 03 lọ nước loại 2ml có chữ NOVOCAIN 3%; 05 bơm kim tiêm trên thân silanh có chữ MPV-3ml/cc (trong đó có 03 bơm kim tiêm chưa sử dụng, 02 bơm kim tiêm đã được sử dụng); 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel loại dùng bàn phím, màu bạc sữa; 10 tờ vé xổ số kiến thiết miền bắc; 01 chiếc mũ lưỡi chai màu đen có chữ BTS và 01 gói Heroine (ngoài cùng được gói bằng mảnh nilon màu trắng bên trong là 02 lớp nilon màu đen chứa 02 cục Heroine) do Q đã ném.

Tại Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng và trích mẫu giám định hồi 10 giờ 00 phút ngày 10 tháng 4 năm 2021 và bản Kết luận giám định tư pháp số: 24, ngày 17 tháng 6 năm 2021 của người giám định tư pháp theo vụ việc thuộc Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu kết luận: sau khi loại bỏ bao bì bên ngoài, gói vật chứng thu giữ của Phàn Dâu Q có 02 cục chất bột màu trắng; cục thứ nhất ký hiệu M1 có khối lượng là 8,39 gam, cục thứ hai ký hiệu M2 có khối lượng là 1,97 gam, cả hai cục chất bột màu trắng có khối lượng là 10,36 gam; trích lấy 0,55 gam ở cục thứ nhất ký hiệu M1 và 0,09 gam ở cục thứ hai ký hiệu M2 làm mẫu vật gửi đi giám định chất ma túy.

Tại Bản kết luận giám định số: 285/GĐ-KTHS ngày 16 tháng 4 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 02 mẫu chất bột, màu trắng (ký hiệu M1, M2) gửi giám định là ma túy, loại: Heroine; không hoàn lại đối tượng giám định.

Tại Bản cáo trạng số: 72/CT-VKSSH ngày 30 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để xét xử bị cáo Phàn Dâu Q về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố, không oan, không sai.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; về hình phạt chính: Áp dụng điểm g khoản 2 điều 249; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Phàn Dâu Q từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù; về hình phạt bổ sung: xét hoàn cảnh kinh tế của gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, để tịch thu, tiêu hủy: 9,72 gam Heroine là vật chứng còn lại trong vụ án; 03 lọ nước loại 2ml, có in chữ NOVOCAIN 3%; 05 bơm kim tiêm trên vỏ silanh in chữ MPV-3ml/cc. Trả lại cho bị cáo 01 chiếc mũ lưỡi chai, màu đen có chữ BTS, cũ đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu MASSTEL, loại có bàn phím, màu bạc sữa, cũ đã qua sử dụng có 01 chiếc sim số thuê bao 0385 328 651 và 10 tờ vé xổ số miền bắc (mỗi tờ đều ghi mệnh giá 10.000 đồng, mở thưởng vào ngày 08 tháng 4 năm 2021, trong đó có 05 vé có dãy số dự thưởng là 002513 và 05 vé có dãy số dự thưởng là 002595) do những vật này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, không phải là vật chứng trong vụ án. Đối với 01 chiếc xe mô tô (xe máy) nhãn hiệu Yamaha, loại Jupiter RC, mang biển kiểm soát 25B1 – 355.77 của gia đình bị cáo. Khi bị cáo sử dụng chiếc xe này làm phương tiện đi mua ma túy thì những người khác trong gia đình bị cáo không ai biết. Ngày 04 tháng 5 năm 2021 Cơ quan Điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã trả lại chiếc xe máy trên cho vợ của bị cáo là bà Phàn Thị C là phù hợp với quy định của pháp luật.

Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa: về tội danh, đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát; về hình phạt bổ sung: đề nghị miễn không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, do hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có điều kiện thi hành; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đã thực hiện. Bị cáo đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm. Đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, để xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng; đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, do bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Phàn Thị C trình bày: 01 chiếc xe mô tô (xe máy) nhãn hiệu Yamaha, loại Jupiter RC, mang biển kiểm soát 25B1 - 355.77 (cũ, đã qua sử dụng) mà bị cáo đã xử dụng làm phương tiện đi mua ma túy. Chiếc xe mô tô này là tài sản chung của gia đình, khi bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy đi bán thì các thành viên trong gia đình không biết. Ngày 04 tháng 5 năm 2021 bà đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ trả lại chiếc xe mô tô trên, bà không có ý kiến, yêu cầu gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người bào chữa đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 73 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo, Người bào chữa:

Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định và có giá trị pháp lý. Những chứng cứ buộc tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật, phù hợp với nhân thân của bị cáo, với mức độ nghiêm trọng, nguy hại cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nên được chấp nhận toàn bộ. Quan điểm của người bào chữa tại phiên tòa đối với tội danh, việc áp dụng hình phạt bổ sung, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về xử lý vật chứng đối với bị cáo là có căn cứ pháp lý, phù hợp với nhân thân của bị cáo, nên được chấp nhận. Đối với đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là có căn cứ pháp lý. Tuy nhiên, do khối lượng chất ma túy của bị cáo tàng trữ là tương đối lớn theo quy định tại khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; việc xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là chưa tương xứng với mức độ nghiêm trọng, nguy hại cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra; không phục vụ tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở địa phương, nên đề nghị này không được chấp nhận.

Có đủ cơ sở để xác định bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Vào hồi 20 giờ 15 phút, tại khu vực giáp ranh giữa bản Nậm Pẻ và bản Nậm Chăng, xã Nậm Cha, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, bị cáo Phàn Dâu Q đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 10,36 gam Heroine, với mục đích để bản thân sử dụng, thì bị Công an xã Nậm Cha, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do vậy, bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Bị cáo đã biết rõ được tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe, đối với đời sống vật chất, tinh thần của gia đình và tác hại của tệ nạn ma túy đối với xã hội, nhưng vẫn cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy để bản thân sử dụng. Nên cần phải áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội; đồng thời giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật; đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đã thực hiện. Bị cáo đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm. Nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng trong pháp luật của Nhà nước.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo không có thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản; bị cáo không lao động trong các ngành, nghề hoặc đảm nhiệm công việc cần phải cấm; nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. [6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 0,64 gam Heroine đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ làm mẫu vật giám định chất ma túy, sau khi giám định và có kết luận, Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định, nên không đề cập xử lý. Khối lượng Heroine còn lại là 9,72 gam, là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành. Cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự để tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 01 mảnh nilon màu trắng, 02 mảnh nilon màu đen, 03 lọ nước loại 2ml, có in chữ NOVOCAIN 3%; 05 bơm kim tiêm trên vỏ silanh in chữ MPV- 3ml/cc là những vật bị cáo đã dùng để gói Heroine, bị cáo dùng vào mục đích sư dụng trái phép chất ma túy, là công cụ được sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Hiện nay những vật chứng này không có giá trị, không sử dụng được. Nên bị tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel loại dùng bàn phím, màu bạc sữa; 10 tờ vé xổ số kiến thiết miền bắc; 01 chiếc mũ lưỡi chai màu đen có chữ BTS thuộc quyền sở hữu của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, không phải là vật chứng trong vụ án. Nên bị cáo được trả lại những đồ vật này, theo quy định tại Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối vớ 01 chiếc xe mô tô (xe máy) nhãn hiệu Yamaha, loại Jupiter RC, mang biển kiểm soát 25B1 – 355.77 (cũ, đã qua sử dụng) mà bị cáo đã xử dụng làm phương tiện đi mua ma túy. Chiếc xe mô tô này là tài sản chung của gia đình, khi bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma túy đi bán thì các thành viên trong gia đình không biết. Ngày 04 tháng 5 năm 2021 bà đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ trả lại chiếc xe mô tô trên cho bà Phàn Thị C là vợ của bị cáo, bà C không có ý kiến, yêu cầu gì thêm, nên không đề cập xử lý nên không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; tại phiên tòa bị cáo xin được miễn nộp tiền án phí, nên bị cáo được miễn nộp tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

[8] Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

[9] Về nguồn gốc ma túy: bị cáo khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, nên không có căn cứ để xem xét xử lý trong vụ án này.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 249; Điều 38; điểm a, c khoản 1 Điều 47; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, các Điều 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố: bị cáo Phàn Dâu Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

2. Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Phàn Dâu Q 05 năm 06 tháng (năm năm sáu tháng) tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tạm giữ (ngày 09 tháng 4 năm 2021) 3. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

4. Xử lý vật chứng:

Tịch thu và tiêu hủy những vật chứng còn lại gồm: 9,72 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu trắng; 02 mảnh nilon màu đen, 03 lọ nước loại 2ml, có in chữ NOVOCAIN 3%; 05 bơm kim tiêm trên vỏ silanh in chữ MPV-3ml/cc.

Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel loại dùng bàn phím, màu bạc sữa; 10 tờ vé xổ số kiến thiết miền bắc; 01 chiếc mũ lưỡi chai màu đen có chữ BTS.

(Những vật chứng, tài sản trên được mô tả chi tiết tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 26, ngày 02 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành an dân sự huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu).

5. Án phí sơ thẩm: Bị cáo được miễn nộp tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 20 tháng 01 năm 2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;