Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 249/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 249/2022/HS-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 206/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 226/2022/QĐXXST-HS, ngày 19 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

1/Họ và tên: Nguyễn Đức A, sinh năm: 1985; tại Nghệ An.

Nơi cư trú: xã H, huyện Đ, tỉnh N; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: không.

Tiền án, tiền sự: không.

Con ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1960 (còn sống) và bà Bùi Thị H, sinh năm: 1962 (còn sống). Gia đình bị cáo có (02) hai anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình. Bị cáo chưa có vợ con.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 13/01/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh số 182 ngày 21/01/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

2/Họ và tên: Bách Tiến D, sinh năm: 1993; tại Thanh Hóa.

Nơi cư trú: 25A3/280, khu phố 3A, phường Long B, thành phố B, tỉnh Đ; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: không.

Tiền án, tiền sự: không.

Con ông Bách Văn T, sinh năm 1971 (còn sống) và bà Phạm Thị H, sinh năm: 1972 (còn sống). Gia đình bị cáo có (03) ba anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.

Bị cáo có vợ là Lê Thị L Con: Có 01 (một) con sinh năm 2016.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 13/01/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh số 183 ngày 21/01/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

(Bị cáo A, bị cáo D có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đức A và Bách Tiến D là 02 (hai) đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Vào lúc 12 giờ ngày 13/01/2022, khi Nguyễn Đức A đang ở trong quán cà phê 337 thuộc tổ 16, khu phố H, phường P, thành phối B, tỉnh Đ chơi thì Bách Tiến D tới quán, tại đây D đưa cho A 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) để mua ma túy đá, A bỏ thêm vào 150.000 đồng (Một trăm năm chục nghìn đồng), tổng cộng là 350.000 đồng (Ba trăm năm chục nghìn đồng). Sau đó D điều khiển xe mô tô biển số 60B1- 438.70 chở A đến khu vực khu phố M, phường P, thành phố B, tỉnh Đ gặp một người đàn ông tên H (không rõ họ, địa chỉ) mua một gói ma túy đá giá 350.000 đồng. Mua được ma túy A cầm ma túy trên tay trái của mình, D chở A quay về quán cà phê 337 thì bị lực lượng Công an kiểm tra do sợ nên A đã thả gói ma túy trên xuống sân sát người. Cơ quan Công an lập biên bản bắt quả tang và thu giữ một gói ny lon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (A khai là ma túy đá) và 01 (Một) xe mô tô 60B1- 438.70.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng (A khai là ma túy đá) đã được niêm phong có chữ ký của A, D và hình dấu tròn đỏ của Công an phường P, thành phố B.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Air blade biển số 60B1-438.70 đã trả lại cho chủ sở hữu.

Bản Kết luận giám định số 125/KLGĐ-PC09 ngày 21/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3824 gam, loại Methamphetamine.

Đối với một đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Đức A, Bách Tiến D Công an thành phố B tiếp tục điều tra xác minh khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

Cáo trạng số: 224/CT-VKSBH-HS ngày 05/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức A, Bách Tiến D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đức A, Bách Tiến D và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức A mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù và bị cáo Bách Tiến D mức án từ từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại sau giám định theo quy định;

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Đức A, Bách Tiến D đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đối chiếu lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo và các chứng cứ, tài liệu thu thập được. Lúc 12 giờ 15 phút ngày 13/01/2022, tại quán cà phê 337 thuộc tổ 16, khu phố H, phường P, thành phố B, tỉnh Đ. Nguyễn Đức A và Bách Tiến D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,3824 gam, loại Methamphetamine” thì bị bắt quả tang.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Đức A, Bách Tiến D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức pháp luật. Do vậy, cần xử phạt các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo thực hiện, nhằm cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người tốt, cũng để răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Nguyễn Đức A, Bách Tiến D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[7] Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt.

[8] Đối với một đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Đức A, Bách Tiến D Công an thành phố B tiếp tục điều tra xác minh khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

[10] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Đức A, Bách Tiến D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 45, 135, 136, 327, 331, 333 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức A, Bách Tiến D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức A 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2022.

Xử phạt bị cáo Bách Tiến D 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2022.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 10 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

Về án phí:

Bị cáo Nguyễn Đức A phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Bách Tiến D phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

441
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 249/2022/HS-ST

Số hiệu:249/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;